
Đời Quân Ngũ Tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang
Văn Hùng Đốc
Tôi vốn thích môn Anh văn trong thời gian còn ở bậc Trung học, cộng thêm 2 năm làm việc cho cố vấn Mỹ sư đoàn 23 tại Ban Mê Thuột, 2 năm cho cố vấn Mỹ tại Trường Võ Bị Quốc Gia Đalat và 2 năm phụ tá Trưởng Phòng Nhân viên dân chính tại Nha Trang, đã giúp tôi hiểu biết khá nhiều về danh từ quân sự, nên đã may mắn được chọn về Trường Sinh ngữ Quân đội sau khi mãn khóa 24 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào đầu năm 1967.
Trường Sinh ngữ Quân đội có một Chi nhánh duy nhất đặt tại Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang là quê nhà của tôi nên tôi xin và được Chỉ huy trưởng, Trung Tá Phan Thông Tràng, chấp thuận ngay vì ông cần người ra thay thế một vài sĩ quan giảng viên đang “bị đày” ra Chi nhánh trong lúc họ muốn phục vụ tại Sàigòn để vừa lo cho vợ con vừa dạy thêm các lớp Anh văn buổi tối để kiếm chút tiền phụ giúp gia đình.
Tôi trình diện với Đại úy Chỉ huy Chi nhánh Vũ Đức Giang vào lúc khóa 16 vừa ra trường, Đại úy Hà Ngọc Lương làm Tiểu đoàn trưởng khóa sinh, Thiếu tá Vũ Xuân An làm Giám đốc Quân huấn (sau đổi thành Văn hoá vụ trưởng), Thiếu tá Nguyễn Tam làm Chỉ huy phó và Trung Tá Đinh Mạnh Hùng làm Chỉ Huy Trưởng. Tôi còn nhớ chỉ vài tháng sau đó trong một buổi chiều tham dự buổi học tập Chiến tranh Chính trị ngoài trời cạnh bệnh xá, vị Chỉ huy trưởng đã mang lon Đại tá (sau vinh thăng Phó Đề Đốc, trùng tên với Trung Tá Đinh Mạnh Hùng khóa 11 hiện ở Seattle).
Trong cuộc chiến Tết Mậu thân, các sĩ quan biệt phái chúng tôi cũng phải cấm trại, cũng trực ứng chiến chung với một sĩ quan Hải quân tại phòng trực cạnh cổng ra vào Trung tâm. Có một đêm tôi tình cờ trực chung với Đại úy Mai Văn Hoa. Suốt đêm chỉ kể chuyện trên trời dưới đất cho chóng hết giờ. Đại úy Hoa tâm sự về cuộc tình khá vui mà tôi chỉ còn nhớ có một câu:
“Có thể nói vừa tình cờ mà cũng vừa duyên số khi họ tôi trùng với tên vợ”.
Cùng sang Mỹ sau tháng 4/75, chúng tôi thỉnh thoảng gặp nhau tại chùa Pháp vân, thành phố Pomona, nơi tôi giúp thành lập và làm Gia trưởng đầu tiên của Gia đình Phật tử chùa này vào năm 1978. Vài năm sau tôi được hung tin về tai nạn xẩy ra cho Trung Tá Hoa tại Bakerfield.
Việc giảng dạy Anh văn cho SVSQ thật nhàn hạ đối với 5 sĩ quan biệt phái chúng tôi, trong đó có Đại úy Nguyễn Văn Minh là em ruột Hải quân Đại Tá Nguyễn Văn Thông. Có thể Đại úy Minh (sau này làm Trưởng Chi nhánh Anh ngữ) được cái dù che nên chúng tôi mới đỡ mưa nắng, ít khi phải vào Trung tâm ngủ trong những lần cấm trại. Trong những lúc rảnh rổi, chúng tôi bước sang hội trường chơi bóng bàn hoặc đợi sắp đến giờ tan sở ra chơi quần vợt. Ngoài giờ học trong lớp, đặc biệt về danh từ Hải quân, sinh viên còn vào phòng thính thị để tập nghe và làm quen với cách phát âm của người Mỹ, một lợi thế để thi ECL (English Comprehension Level) nếu sinh viên muốn được tuyển chọn đi thực tập trên Đệ thất hạm đội. Đây là cơ hội để sinh viên nghỉ mát trong phòng có máy điều hòa không khí, nên thường giảng viên chúng tôi làm ngơ khi thấy một vài sinh viên gục đầu ngủ thoải mái. Sau này gặp lại nhau tại Mỹ, các bạn đó nói đùa là nếu họ chăm chỉ học thời đó thì nay đâu có trở thành người tỵ nạn!
Chỉ huy trưởng kế tiếp là Đại tá Khương Hữu Bá. Nếu Đại tá Đinh Mạnh Hùng đẹp trai dễ dãi trông giống nhà mô phạm thì Đại tá Bá trông nghiêm nghị khắc khổ, một biểu tượng của quân phong quân kỷ. Tuy nhiên, Đại tá Bá rất chịu chơi và thông cảm với sinh viên, nên thỉnh thoảng cho thuộc cấp tổ chức các show cuổng trời tại hội trường để sinh viên rửa mắt. Nhưng Đại tá đâu có biết là sau khi rời hội trường, một vài sinh viên tâm tình với tôi vào ngày hôm sau là vì “mắt sáng quá nên đêm qua không ngủ được”.
Lần đầu tiên trong đời tôi được chứng kiến một đám cưới tổ chức theo kiểu cách Hải quân với sự cho phép và giúp đỡ của Đại tá Bá giữa chị Tôn Nữ Thị Khánh và Hải quân Thiếu tá Võ Quang Thủ. Đẹp nhất là cảnh cô dâu chú rể tay trong tay dìu nhau dưới hàng kiếm danh dự trông thật oai nghiêm.
Mấy năm sau, Trung tá Võ Quang Thủ về nắm Văn hóa vụ, rồi sau bàn giao cho Trung tá Đặng Diệm dưới thời Chỉ huy trưởng Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu. Không biết đoán được thời thế hay nhờ sinh nhằm năm có quý nhơn phù trợ mà Trung tá Đặng Diệm đã rời chức Văn hóa vụ trưởng để quy mã du học rồi trở thành người tỵ nạn mà không phải di tản. Trung tá Hà Ngọc Lương về Phòng Văn hoá vụ đúng vào thời điểm đen tối nhất của TTHLHQ. Có lẽ vì việc di tản xuống Cầu đá để lên chuyến tàu chót quá đông đảo và nguy hiểm vào đêm 30-3-75 nên Trung tá Lương đã kẹt lại để rồi anh dũng kết liễu đời mình cùng với vợ con.
Thời Đại tá Nguyễn Trọng Hiệp lên làm Chỉ huy trưởng thì vị Chỉ huy phó là Trung tá Nguyễn Văn Nhựt. Đại tá Hiệp trông phúc hậu hiền hòa, rất được thuộc cấp thương kính, nhưng về mặt văn nghệ, chắc Đại tá không thích hợp với tiếng hát câu hò. Tượng Đức Thánh Trần Hưng Đạo và Lăng miếu mới bắt đầu được xây cất vào cuối khóa 23, tiếp tục cho đến khóa 25 mới hoàn tất dưới sự chỉ huy điều động của Trung tá Nhựt và sự đóng góp tích cực của một số SVSQ “kiến trúc sư” như Nguyễn Hữu Tưởng, Âu Dương Xuyên, Phan Thanh Quang, Mai Chính Bình, Đặng Văn Phát v.v.. Trung tá Nhựt và các sinh viên ngày đêm miệt mài lăn lộn lo thực hiện một công trình vĩ đại, một công tác khó khăn kéo dài hơn cả năm trời, nhưng khi Tượng đài được khánh thành vào cuối năm 1973 nhân dịp mãn khóa 24, tôi để ý nhưng không thấy một bản ghi tên các điêu khắc gia có tên nêu trên.
Đến thời Chỉ huy trưởng cuối cùng thì Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang lần đầu tiên mới có vị chỉ huy cấp Tướng. Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu là vị sĩ quan rất bình dân, gọi và xưng hô với thuộc cấp rất là tự nhiên. Có lẽ vì lý do này mà ông có biệt danh là Cowboy Châu. Chiếc xe Jeep gắn sao lúc nào cũng có quân cảnh hộ tống dù chỉ di chuyển trong quân trường. Tôi còn nhớ vào một buổi xế trưa, tôi đang chơi bóng bàn với Thượng sĩ Long trong hội trường thì thấy một quân cảnh bước vào báo là có Đô Đốc đến. Mặc dù hai chữ Đô Đốc rất quen thuộc với tôi vì người anh ruột tôi là Văn Hùng Đô và tôi là Văn Hùng Đốc (mà tôi lại đi Bộ binh!), nhưng thú thật lúc đó tôi hơi bối rối vì vào khoảng 2, 3 giờ chiều là lúc đang làm việc mà mình lại chơi bóng bàn, nhưng rồi tôi lấy lại được bình tỉnh ngay khi vị Chỉ huy trưởng thay Thượng sĩ Long đánh thử vài quả rồi bỏ đi. Tôi thường chơi bóng bàn với Đại úy Nguyễn Xuân Diên, Thiếu tá Nguyễn Dinh. Còn về quần vợt thì tôi chơi với sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa (trong vụ còi hụ Long an), Thiếu tá Đặng Hữu Thân, Thiếu tá Y sĩ Trương Cao Nghĩa, Trung Tá Võ Quang Thủ, Trung tá Mai Văn Hoa. Chơi xong thường chúng tôi rủ nhau xuống Chut ăn phở gà.
Ngoài hai vị Chỉ huy trưởng Đinh Mạnh Hùng và Nguyễn Trọng Hiệp còn có các sĩ quan khác tính tình cũng dễ thương, được sự cảm mến của hầu hết quân nhân các cấp, đó là các Trung tá Nguyễn Văn Nhựt, Trung tá Đặng Diệm, Trung tá Nguyễn Văn Tâm (nhà văn Trần Quán Niệm), Trung tá Võ Quang Thủ, Trung tá Đỗ Công Thành, Thiếu tá Nguyễn Dinh, Thiếu Tá Nguyễn Văn Minh (thấp người) v.v…
Trong thời gian làm việc khá lâu tại TTHLHQ, Hạ sĩ quan không có gì để phân biệt, riêng sĩ quan tôi nhận thấy hình như có sự phân cách giữa cấp Úy và cấp Tá, không hẵn vì cái mũ có hay không có bông lúa, mà ngay tại câu lạc bộ sĩ quan, đôi khi tôi thấy cấp nào cũng thích ngồi cùng bàn với nhau, có thể là để trò chuyện thích hợp hơn với phòng sở mình chăng?
Đang sống cuộc đời nhàn hạ, dùng phấn trắng bảng đen thay súng đạn nơi chiến trường thì tình hình chiến cuộc thảm khốc từ miền Cao nguyên sang miền Trung rồi lan đến ngay quận Khánh Dương của tỉnh Khánh Hòa khiến tôi cũng như quân nhân thuộc TTHLHQ thực sự lo sợ.
Sáng ngày 31 tháng 3 năm 1975 tôi thấy chiếc HQ 402 đang ủi bải ngay trước Trung tâm. Tôi tò mò đến gần xem thì thấy SVSQ khóa 26 đang được lệnh canh giữ không cho đồng bào tràn lên tàu vì chỉ dành riêng cho gia đình quân nhân thuộc Tung tâm. Trông thấy Bác sĩ Vũ Công Liêm đang xách cặp bước qua lại trước tàu nhưng sinh viên không cho lên, tôi mới bảo sinh viên cho Bác sĩ lên. Và sinh viên đã nghe tôi để Bác sĩ Liêm vui mừng bước vội lên tàu. Bác sĩ Liêm là Chủ tịch Hội Việt-Mỹ tại Nha Trang. Bác sĩ cùng với Giáo sư Tôn Thất Hà có mở các lớp Anh văn đêm tại Trường Nam Tiểu học Nha Trang.
9 giờ đêm 31-3-75, Đề đốc Châu ra lệnh hành quân, nhưng mãi đến 10 giờ cả Trung tâm mới bắt đầu di chuyển xuống Cầu Đá. Tôi và Đại úy Minh ngồi cùng xe Jeep với Chỉ huy phó Nguyễn Nam Thanh. Cầu đá lúc bấy giờ trông như bãi chiến trường với xác người và súng ống vứt bừa bãi khắp nơi. Chiếc HQ 401 đậu cách cảng khá xa nên thật khó nhọc vất vả lắm mới bám được thành tàu.
Sau 1 đêm hải hành sóng lặng gió êm, tàu ủi bải tại Cát Lái thay vì phải ra thẳng Phú quốc như những tàu khác theo lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu để tránh cảnh đông đảo chen chúc rối loạn tại Thủ đô. Ngày hôm sau tôi mới biết Đại úy Minh và Thiếu tá Phan Như Hoàng (Trưởng Khối Yểm trợ Tiếp vận) trong lúc cố lên tàu đã tuột tay rớt xuống nước nên cả hai leo lại lên bờ, dùng chiếc xe Jeep bỏ không nhưng may vẫn còn chiếc chìa khóa để chạy về lại Trung tâm và được Đề Đốc Châu cho lên phi trường để cùng đáp máy bay về Sàigòn trước. Mới đây, nhân dịp chị Mộng Lân tổ chức buổi họp mặt tiếp đón chị Hảo Thanh từ Pháp sang tại nhà hàng Royal Seafood vào đêm 28-5-2006, tôi tình cờ lần đầu tiên gặp lại Thiếu tá Hoàng sau hơn 31 năm.
Năm sĩ quan giảng viên chúng tôi trình diện Trung tá Trịnh Đình Phi, Chỉ huy trưởng Trường Sinh ngữ Quân đội, nhưng may mắn được phép tại ngoại, coi như missing in action. Nhờ vậy nên tôi mới có thì giờ lo thu xếp gia đình lên đường vượt biên trên chiếc thương thuyền của Mỹ rời Tân Cảng
đêm 24-4-75 trực chỉ Subic Bay. Con tàu rộng lớn có sức chứa đến 2 ngàn, nhưng nhìn qua lại tôi đoán độ chừng chỉ vài trăm người vì ít ai biết được cơ hội di tản dễ dàng này, ngoài một số người trong đó có ân nhân của gia đình tôi là đồng nghiệp Nguyễn Hữu Hoàng, cũng đã một thời biệt phái ra Trung tâm HLHQNT. Tôi đã sang Mỹ hai lần vào năm 1969 và 1972 để tu nghiệp về sư phạm. Lần thứ ba này ra đi không hẹn ngày về.
Tôi thật may mắn làm việc ngay tại quê nhà và hãnh diện đã phục vụ chung với những quân nhân áo trắng và tự coi mình thuộc đại gia đình Hải quân, chỉ khác ở bộ quân phục màu vàng. Nếu trước 1975, những sĩ quan Hải quân là bông hoa, là sườn cột của Quân lực Việt nam Cộng Hoà, thì sau 1975, tại hải ngoại, những chàng áo trắng đã không ngừng tranh đấu cho cộng đồng và quê hương đất nước, tiêu biểu nhất có quý vị từ Đinh Mạnh Hùng, Trần Văn Sơn, Trần Trọng Ngà, Trần Trọng An Sơn, Vũ Duy Phúc, đến Võ Đại Vạn.
Nhân đây tôi gởi lời thăm hỏi tất cả quân nhân thuộc Trung tâm Huấn Hải quân Nha Trang mà tôi đã có cơ hội tiếp xúc, quen biết và làm việc chung trong tình huynh đệ chi binh qua một thời gian trải dài từ đời Chỉ huy trưởng HQ Đại tá Đinh Mạnh Hùng, HQ Đại tá Khương Hữu Bá, HQ Đại tá Nguyễn Trọng Hiệp đến Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu.
Những sai sót về tên tuổi, thời gian cũng như sự việc kể ra là do trí óc người viết lâu ngày không nhớ rõ. Mong quý chiến hữu vui vẻ bỏ qua và coi đây như câu chuyện của người lính ghi lại và hối tiếc thời vàng son xưa.
Văn Hùng Đốc
Little Sàigòn, 06-06-06

