VĂN

TÔI VẪN CÒN SỐNG – NHƯ MAI

Ngày 31 tháng 8 năm 1982, khi bước vào thân con tàu PanAm khổng lồ như mồ chôn mình. Tôi đã nuốt lệ, đau đớn, không dám ngoái cổ nhìn lần cuối hai đôi mắt trẻ thơ đang ngơ ngác tiễn mẹ ra đi mà không biết đến bao gìơ mới được gặp lại . Cảm giác ấy, đến hôm nay vẫn còn thấm đậm trong lòng tôi, và cho đến muôn đời sẽ không mờ phai.

Tôi đã chọn sự ra đi êm đềm để tránh cho các con tôi cảnh phải ôm chầm thân xác gớm ghiếc, bệnh hoạn  của người mẹ còn quá trẻ, đang mắc chứng bệnh trầm kha mà bác sĩ đã cho đời sống giới hạn từ 1 đến 180 ngày.

Hơn một tháng qua, đêm đêm từng giọt nước mắt rơi theo từng sợi tóc lìa khỏi da đầu. Những cơn đau thể xác tràn ngập dày xéo tấm thân đã gầy guộc như cành mai trơ trụi buổi đông tàn. Tôi nghiến răng, cắn nát môi, nhắm mắt, tập trung tư tưởng trong một lối thiền để phân tán cơn đau sau mỗi lần nhận lãnh liều thuốc cực mạnh đưa vào da thịt.

Yếu đuối đến độ, mỗi lần tay ôm các con vào lòng mà vẫn không sao siết cho thật chặt! Tuyệt vọng hoàn toàn, tuyệt vọng lên cao độ đến nỗi tôi không thể suy nghĩ hay mong ước gì được nữa..

Ngày Đức Ông Thụ từ Vatican đến thăm, làm phép xức dầu cho tôi, ngài đã hỏi tôi:

-“Con có điều gì muốn xin?”

Tôi  thưa với ngài:

-“Ngày nào Chúa gọi, thì con sẽ xin theo…!”

Tôi còn nhớ, sau câu trả lời này, mọi người đã ôm chầm tôi, ứa nước mắt, tôi qủa đã sống mãi mãi trong lòng họ vì lời nói này. Lúc đó không hiểu vì sao tôi bình tĩnh dễ sợ! Rồi Soeur Pascale, Cha Trần Công Nghị, các ngài đã tổ chức hai ngày cấm  phòng, cùng cắm trại để tôi và các con được hưởng những ngày vui vẻ trên một đảo nhỏ cách xa đô thành. Kỷ niệm này đã được ghi lại thật đậm nét.

Đến Mỹ, ở Mỹ 4 tuần, tôi định nhập viện Cancer Tumor Institute Anderson, tại Houston, nhưng bệnh viện phí qúa đắt, phải là chủ nhân một gia sản kết sù mới trang trải nỗi. Tôi không đủ tiền nhưng đã từ chối mọi giúp đở của các Cha, các cộng đoàn Công giáo VN ở Mỹ, bởi lẽ tôi không còn muốn chữa bệnh. Tôi muốn để tài sản hiện có cho các con, tôi cầu xin hai đứa em tôi hãy mang các con tôi qua Mỹ, nếu tôi có mệnh hệ nào, để chúng được nuôi nấng , dạy dỗ nên người trong môi trường thuận tiện hơn.

Ngày 26 tháng 9 năm 1982, tôi rời Dallas bay qua Montreal, Canada. Ở đó có người thầy cũ, cựu giáo sư trường Khoa Học Saigon và bác sĩ  Nguyễn Hữu Tùng, chuyên khoa Oncology. Họ muốn giúp đỡ tôi, chữa bệnh cho tôi hay giúp tôi kéo dài sự sống  dăm ba năm nữa bằng tia quang tuyến với phí tổn rất ít ỏi.

Bầu trời Montreal vào thu với lá vàng bay ngập lối đi tuyệt đẹp, thành phố cổ kính, vương giả, với những con đường lát gạch bát tràng, những hàng cây rợp bóng.

Đường Côte de Neige dọc phố nhộn nhịp người qua lại, đường Côte de Katherine với những  ngôi nhà kiến trúc Âu Châu. Dân bản xứ lịch sự, hiếu khách, nói tiếng Pháp. Chuỗi ngày cuối cùng như vậy thật diễm tuyệt, quên chiếc đầu trọc lóc, quên làn da với những vết đỏ bầm vì hồng huyết cầu bị phá hủy. Nhưng cái đẹp bên ngoài không ở lâu , luôn luôn nhường chổ cho nhớ nhung và sự đau đớn của thể xác. Mỗi ngày đều điện đàm viễn liên với các con ở xa, bên kia bờ đại dương, nghe giọng nói thân yêu để an ủi và để hứa hẹn.  Nước mắt tuôn rơi, trái tim nghẽn tắc vì cốt nhục chia lìa.

Tôi phải làm gì đây? cầu nguyện, chỉ biết cầu nguyện gấp đôi, gấp ba . Không cầu nguyện cho mình mà cầu nguyện cho các con  vì tôi đã hứa với Chúa là sẽ đi theo ngài. Ngài có nhận con người bệnh hoạn này không?

Sáng chủ nhật , trời trong veo, nắng ẻo lả ban cho trần gian sự ấm áp dễ thương, tôi thức dậy từ lâu, nghe ngóng các biến chuyển của thân xác mình, nhìn trong gương cặn kẽ, để xem sự sống có vơi chút nào chưa?  Vẫn hiện hữu của cái đầu không tóc, làn da bệnh hoạn, những cơn ho làm đau cổ, rát lồng ngực.

Ngày hôm qua bác sĩ đã khám tổng quát, chưa phát hiện biến chứng gì tệ hơn. Tôi trao cho phòng thí nghiệm mảnh tế bào (smear) lấy từ trong cái hạch ở cổ để người ta xem xét lại. Chứng ung thư hạch một khi lan truyền vào máu sẽ hết phương cứu chữa, xuất hiện ở một người con trẻ như tôi là hiện tượng hiếm có.

Loại ung thư này giết người rất nhanh, cái chết của bệnh nhân thật dễ sợ, hình hài sẽ biến dạng rất lạ lùng.

Tôi mặc y phục đẹp để đi ra ngoài, hưởng những giọt nắng cuối cùng của đời mình. Vừa ra khỏi cửa thì Thầy Long cũng vội vã bước đến, thật là ngẩu nhiên. Thầy muốn đưa tôi đi đến một nơi mà thầy nghĩ thật thích hợp cho tôi.

Trời ơi, cả đời tôi không thể ngờ dược là có một ngôi thánh đường tuyệt đẹp như vậy! Tim tôi rung động, óc tôi nở lớn, có một cái gì ấm áp, thân thương phủ lấy tôi. Chân tôi như bước đi nhưng không cần dùng sức, sự mệt mỏi do bệnh tật tan biến, có một bàn tay vô hình đang vuốt tóc tôi, đang dắt tay tôi lên từng bậc cấp .

Tôi quì xuống, đi bằng đầu gối. Tôi không đọc được một câu kinh nào, vì không còn chữ nghĩa thành hình trong óc não. Chỉ rên rỉ một câu cầu xin duy nhất:

-“Xin Chúa cứu con, xin Chúa hãy cứu con, con muốn sống với các con của con, con muốn nhìn chúng lớn lên.”

Tôi đã mất sự can đảm lúc ban đầu, tôi đã quên câu nói với Đức Ông, tôi đã quên lời hứa sẽ đi theo Ngài! Tôi muốn sống ở trần gian này thêm một thời gian nữa!

L’Oratoire de St. Joseph, nơi tôi đã đến, tôi đến mỗi ngày, với một người thân duy nhất là thầy Long, người đã luôn ở bên tôi để cùng tôi cầu nguyện trong tháng ngày tuyệt vọng vì chứng bệnh nan y.

Tôi đã đến bên chân Thánh André, frère André của năm 1845. Ngài đã hiển thánh và đã ban nhiều phép lạ cho loài người. Tôi thì thầm với Ngài:

-“Xin Ngài hãy ban phép lành cho con…”

Như một đúa con nít vòi vĩnh người lớn món qùa nhỏ bé!

Tôi không biết Ngài nghĩ thế nào về lời xin của tôi, vì Ngài không cho ai qùa “chữa bệnh” cả. Ngài chỉ muốn mình thành tâm cầu xin Chúa, tin Chúa, kính Chúa, sống xứng đáng là con của Chúa. Ngài là người đưa đường chỉ lối, Ngài đã chuyển lời cầu xin của người trần gian lên đến Chúa và mang tin mừng từ Thiên Chúa đến với chúng ta.

Tôi sống qua mùa đông băng gía ở Canada, chờ đợi tử thần một cách miễn cưỡng, đầy sợ hãi, bởi tôi không muốn chết, không nuốn chết chút nào! Tuyết rơi phủ đầy sân, tuyết đóng thành băng trên khung cửa, tuyết trắng xóa ngôi thánh đường thân yêu , tôi vẫn tiếp tục đến, lầm lũi từng bước vào , cảm nhận sự ấm áp và chở che. Đây mới thật sự là nhà của tôi. Tôi bảo Thầy Long:

-“Nếu em chết đi, xin hãy chôn em ở đây, trong nghĩa trang cạnh nhà thờ, và xin lễ cầu hồn của em trong thánh đường này!”

Thầy Long ứa nước mắt, không dám vuốt tóc tôi vì tôi đang mang tóc giả. Buồn cưòi và thật tội nghiệp khi gió lớn thổi qua, tôi phải lật đật ôm ghì mái tóc vì sợ sẽ bay đi mất!

Kết quả  của phòng thí nghiệm xác nhận lại các tế bào lạ trong máu của tôi không phải là tế bào ung thư , tuy nhiên bác sĩ vẫn tiếp tục theo dõi các biến chuyển trong cơ thể trong vòng 3 tháng mới khẳng định là tôi không bị ung thư.

Những ngày chờ đợi thật dài , thấp thỏm, tôi tiếp tục cầu nguyện, giữ vững lòng tin.

Noel 1982 là đêm Giáng sinh buồn nhất đời, lạnh lẽo, cô đơn, một phần vì tang mẹ còn nóng hổi, phần khác vì xa con. Tôi chỉ có một ngọn nến trong phòng, đi lễ nửa đêm trong giá buốt, tuyết phủ dày lắm, gần một thước tây.

Em Tuấn từ Mỹ qua thăm tôi. Hai chị em đi viếng thánh đường, đi bộ trên nhiều con đường trong thành phố, râu của Tuấn có đọng những hạt nước đá trong veo từ những giọt nước mắt khi nghe tôi báo :

“ Chị vẫn còn sống em ơi!”

Ngày vui nhất trên đời là sau Tết tây, bác sĩ Tùng đã chúc mừng tôi thoát khỏi chứng ung thư hạch ngặt nghèo. Thật ra tôi không mắc bệnh ung thư! Bác sĩ và những người trong bệnh viện hỏi tôi có muốn kiện những ai đã gán cho tôi chứng bệnh trầm kha này không? Tôi đã được trị liệu bằng hóa chất gồm 10 mũi  thuốc chích và 60 viên thuốc uống, những loại thuốc ngăn ngừa sự phát triển của mầm tế bào ung thư cực mạnh. Tôi phải được bồi thường vì sự ngưy hại  sức khỏe của tôi về sau này. Tôi hỏi bác sĩ:

-“ Có bao nhiêu trường hợp bị lầm lẫn?”

-“ Không bao nhiêu, hiếm lắm!”

Tôi lắc đầu nói:

-“Tôi được sống, tôi mãn nguyện rồi, tôi không muốn kiện tụng. Bởi vì tôi nghĩ đây là  một sự mầu nhiệm, Ơn Trên đã ban phép lành cho tôi!”

Vị bác sĩ già người Canada bắt tay tôi, hôn lên trán tôi và nói:

-“ Chère petite dame! Dieu récomprense votre générosité!” (người đàn bà bé nhỏ đáng yêu, bà có lòng nhân đạo nên được Chúa ban thưởng!).

Còn gì vui sướng hơn! Bác sĩ Tùng với nụ cười hiền hậu cũng chúc mừng tôi. Ngỡ Thầy Long là anh hai cuả tôi nên gửi gắm:

-“ Hãy chăm sóc cho cô ấy, đừng để bị cảm cúm khó chữa lành, vì lượng thuốc trong người cô ấy vẫn còn nằm trong máu.”

Mỗi năm tôi phải đi đếm máu, vì hậu quả phụ (side effect) của những loại thuốc chống ung thư có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của tôi sau 10, 15 năm.. Lúc đó, tôi sẽ gìa rồi, và khoa học cũng sẽ tiến bộ để lại giúp tôi đẩy lui bệnh tật.

Tôi cám ơn Chúa, cám ơn Thánh André, cám ơn Thầy Long. Tôi nợ một đời sống. Tôi hứa sẽ sống cuộc đời còn lại thật xứng đáng.

MAI SA MẠC