Thi Tập Trăng Nước Bến Bờ Xưa
Duy Xuyên
Tôi nhận đuợc Thi tập của thi sĩ Uyên Thúy Lâm (UTL) gởi tặng. Thi tập do Tác giả xuất bản lần thứ nhất tại Hoa Kỳ và tác giả giữ bản quyền, vào tháng 3 năm 2015.
Tôi xin phép đuợc chia sẻ những nỗi trăn trở, khát vọng của THI SĨ Uyên Thúy Lâm muốn trình bày với chúng ta những vụn vỡ ngoằn ngoèo mà tình yêu – cuộc đời – Anh và Em – Nguời Tình của một thời ký ức đã vuốt mặt ra đi… và những nỗi đau đó vẫn còn tồn tại, đầy đọa trong cơn điên-tỉnh-ngủ của nhà thơ Uyên Thúy Lâm.
Nhà thơ Uyên Thúy Lâm cũng đã tâm sự với chúng ta:
“…Cá nhân tôi đến với thơ có lẽ cũng đon giản như nguời thi sĩ thuở hồng hoang, cũng dễ mềm lòng truớc nhân vật, cảnh vật, cũng dễ bâng khuâng với đất trời.”
Thật vậy, nhà thơ gốc nhà giáo Uyên Thúy Lâm đã viết lên những trang thơ thật phong phú, mang nhiều thanh âm của tình yêu đôi lứa:
“Lòng tự hỏi làm sao nguời thấu đuợc
Những u hoài năm tháng chất trong tim
Những trăn trở suốt một đời luân lạc
Chim cành Nam, ngựa ải Bắc mong tin.”
Tình yêu dù ở hay ra đi, buồn vui hay hạnh phúc cũng chỉ là những viên sỏi lăn mòn trong ký ức trên chặng đuờng của đời thuờng.
Còn thân phận con nguời như là chiếc lá bay qua cõi tạm rồi một ngày chỉ còn lại sự im lìm vô vọng. Nhớ về hay giữ lại, nhà thơ Uyên Thúy Lâm đã đưa chúng ta vào tâm tư ngậm ngùi với nỗi đau lạnh cóng của nguời tình khi xa nhau, nhưng vẫn còn hoài mong, luyến tiếc:
“Anh có biết quá nửa đời gian khổ
Diệu kỳ thay nguời tìm lại đuợc nguời.
Xin cùng lắng tiếng thì thầm trong gió
Chuyện nghìn năm mầu ký ức xanh tươi.”
(Tri Ngộ, UTL, trang 5).
Nữ sĩ viết:
“Có phải mầu xanh của núi rừng
Của cành thông biếc lúc sang xuân
Của ngàn cây lá và hoa nữa
Em ở bên ta lúc… ngập ngừng…”
“Có phải mầu hồng đôi má say
Cho đời thêm những nét trang đai
Bao nhiêu hoa đẹp trong vuờn thắm
cũng sánh chưa bằng môi má ai?
(Sắc Màu, trang 69).
*Chữ nghĩa của nhà thơ UTL thật giản đơn, quá mộc mạc nhưng thật gợi tình: “lúc… ngập ngừng…”, “môi má ai?” Cho ta cái cảm giác ngây ngất, quấn quít vừa khêu gợi làm sao! Phải rồi, chàng vẫn còn ngập ngừng muốn hôn lên môi má của nguời yêu, nhưng chàng vẫn còn chần chờ chưa dám.
Đối với cá nhân chúng tôi, Thi Tập “Trăng Nuớc Bến Bờ Xua”, có thể nói là những trang thơ hay, đuợc viết duới ngòi bút giản dị, mộc mạc của nhà thơ Uyên Thúy Lâm, nữ sĩ vừa cảm nhận đuợc, vừa nhớ lại từng chi tiết còn đang hằn sâu trong tâm khảm, để viết lại, như một nhiếp-ảnh-gia chuyên nghiệp. Nữ sĩ đã thu đuợc trong ống kính và nay nhà thơ mới cho chúng ta xem những phóng ảnh thực tế, đuợc chọn lọc trong không- ảnh của ngăn tim mà hình ảnh cực kỳ sống động.
Một tập thơ thật giá trị để cống hiến đến quý độc giả của nhà thơ Uyên Thúy Lâm với những tâm tình cao quý nhất, và có thể là những từ ngữ xuất phát từ nội tâm riêng của mỗi nguời trong chúng ta.
Thi Tập “Trăng Nuớc Bến Bờ Xua” là đứa con tinh thần đầu lòng của nhà thơ trong vòng vài tháng nay.
“Thi Tập” gồm 72 bài thơ, đuợc trình bày thật trang nhã trên 270 trang. Trong đó có 7 bài thơ đuợc phổ nhạc với các nhạc sĩ đã thành danh tại hải ngoại như: LMST, cũng Đan, Thiện Lý, Nguyên Long, với những ca khúc sau đây:
– 1/ Đan Chim Nhỏ (Nhạc Thiện Lý) trang 62.
– 2/ Thiên Thu (Nhạc Nguyên Long) trang 152.
– 3/ Lối Thu Xua (Nhạc Lộc Tòng) Trang 183.
– 4/ Giấc Mo Đầu (Nhạc Nguyên Long) Trang 203.
– 5/ Đâu Còn Em Bên Tôi (Nhạc LMST) Trang 213.
-6/Vuờn Hương Cổ Tích (Nhạc cũng Đan) Trang 221.
– 7/ Vuờn Hương Cổ Tích (Nhạc LMST) Trang 222.
Thơ của nữ sĩ Uyên Thúy Lâm cũng là nguồn hứng cho nhiều thi nhân khác, nên thi tập của nhà thơ cũng đa đuợc nhiều thi nhân thành danh ở hải ngoại như Hoa Văn, Tuờng Vy, Lê Ngọc Kha, Vũ Linh Huy, Thương Anh, Tạo Ân, Nguyễn Thanh Ty, Tố Anh, Mây Hoài Hương, Tuấn ìinh, Nguyên Bông, Bùi Thạch Truờng Sơn, Ngô Tuởng Tiến, Thụy Hoài Như, Hàn Tuy Xát, Lộc Tòng, Song Phuợng, Vinh Hồ, Quỳnh Trâm Anh, Phi Bảo, Nguyễn Hoàng Linh, Cuồng Đao, Nam Thảo, Tuấn Đình, Lê Dung Phạm Phú, Nguời Xứ Vạn, Duy Quang, Trần Minh Hiền, Lê Phi Ô, Lãng…, Trần Doãn Nho, Trăng Ngàn, Lê Thị Hoài Niệm, Trần Thu Miên, Mây Hoài Hương.. *Xuớng – *Họa.
Do đó, chúng ta có dịp may mắn để nghiền ngẫm, ngấu nghiến từng chữ, từng lời của ý thơ rất linh động, để ta có cái hạnh phúc to lớn quá đỗi đó!
Ngoài ra, Thi Tập của nhà thơ Uyên Thúy Lâm cũng đuợc các nhà văn tên tuổi của hải ngoại đã viết những Cảm Nhận, Những Giòng Giao Cảm, Đọc Thơ… của nữ sĩ như:
1/ Nhà thơ, nhà văn Vinh Hồ, Chủ Tịch Văn Bút Miền Đông Hoa Kỳ.
(Cõi Thơ Uyên Thúy Lâm, Điệp Khúc Chia Ly, Hoài Vọng, Thuong Mhớ, Đi Tìm.Trang 12)
2/ Nguyễn Triệu Việt: (Những Giòng Giao Cảm Về Nữ Thi sĩ UTL. Trang 33)
3/ Hoa Văn: (Vài Lời Giới Thiệu. Trang 125)
4/ Trần Minh Hiền
(Đọc Thơ Uyên Thúy Lâm. Trang 137).
5/ Thuong Anh
(Đôi Dòng Về Nguời Thơ UTL. Trang 185)
6/ Tạo Ân:
(Nỗi Khát Khao Một Đời Tìm Mãi. Trang 234)
7/ Trần Thu Miên
(Dòng Thơ Nữ Việt Lãng Mạn. Tramg 247).
8/ Trần Doãn Nho:
(Đôi dòng Về Nhà thơ Uyên Thúy Lâm. Trang 228).
Nhà Văn Vinh Hồ đa viết:
“Cõi thơ Uuyên Thúy Lâm vừa trử tình lãng mạn, vừa đoan trang mẫu mực, mộng thực đan nhau. Có những khổ thơ tả cảnh thần sầu, cũng có những đoạn thơ tả tình tinh tế. Nơi đó, đạo đức phẩn hạnh của nguời phụ nữ VN đuợc tôn cao.” (Trang 12.)
Ta thử đi tìm cái vừa trử tình lãng mạn trong thơ UTL mà nhà văn Vinh Hồ đa nhắc đến:
Thật vậy, thơ UTL trữ tình, lãng mạn thật:
*Trử tình:
“Trong cũng cấm sao chàng lặng lẽ
Không cuời vui bên thiếp hiền ngoan
Chung mỹ tửu chiều nay uớp lệ
Chàng không vui, lòng thiếp ngỡ ngàng.”
Rồi:
“Chàng đi ngàn dặm ngoài biên ải
Lòng thiếp theo chàng đến cố cũng”
Và:
“Thẩn thờ gối chiếc canh thâu vắng
Một nửa vầng trăng luống bẽ bàng!”
* Lãng mạn:
“Khúc Nghê Thuờng xiêm y rực rỡ
Ruợu bồ đao cùng uống chung môi”
(Tình Sử Cổ Loa Thành, trang 76).
UTL đa viết, lời thơ rất mộc mạc, giản đơn nhưng chan hòa tình cảm.
Thơ UTL vừa trữ tình, vừa lãng mạn, đôi khi nữ sĩ để cho con tim của mình tuôn trào theo những dòng nghi thật lãng mạn như sóng vỗ tràn bờ nhưng sau đó nhà thơ đa dùng lý trí để kìm hãm con tim như thủy triều đang dâng, mà nhà thơ đa đưa hồn thơ từ lãng mạn về trữ tình rồi sau đó nữ sĩ đã dùng ngòi bút điêu luyện của mình chuyển những dòng thơ đó trôi về cổ điển:
“Hẹn sẽ chờ nhau dù trọn kiếp,
Đuờng bao xa, núi cách sông ngăn.
Ta vẫn tìm nhau trong giấc điệp
Tay trong tay như đã bao lần.).
(Đi Về Có Nhau, trang 114).
“Thi TậpTrăng Nuớc Bến Bờ Xưa” cũng đã đuợc Nguyễn Triệu Việt, cây bút gạo cội của Bán Nguyệt San Văn Nghệ Tiền Phong viết Những Giòng Giao Cảm.
*Ông viết:
“Thơ của chị sang cả, tuyệt vời. Chữ nghia lồng lộng diễm ảo như khói suong, đủ để đắm say lòng nguời lữ thứ.”
(Những Giòng Giao Cảm…
Trang 33).
*Ta thử đi tìm Chữ Nghia Lồng Lộng của Nhà thơ UTL:
* Diễm ảo Như Khói Sương:
” Hàng cây đọng bóng lung chiều
Sương mù Đa Lạt gợi nhièu nhớ thuong”
“Cà phê Thủy tạ suong ngàn
Phở Tùng thuở ấy vội vàng chia tay.”
“Dốc Bùi Thị Xuân mưa tuôn
Áo em đẫm uớt cùng thuong dáng gầy.”
(LANG-BIANG ĐÓN BUỚC EM VỀ, trang 141)
Thật vậy, thơ UTL như sương như khói, khi muốn nói đến hình dáng của một nữ sinh, chiều tan truờng về, bất chợt mưa tuôn… Có những giọt mưa ngâu từ mái tóc nhiễu xuống, chảy dọc theo đôi má trắng ngần, từ từ lan ra thân áo dài mỏng truớc ngực, vai gày sau lưng làm chiếc áo dài bị nuớc mưa đẫm uớt… Gợi cho tôi thấy dáng nàng e thẹn vội vã buớc nhanh về nhà, cho tôi muờng tuợng đuợc chiếc áo dài mỏng dính bám vào da thịt, rồi vai gầy lồ lộ…
Từng nhịp đập bồi hồi!
Nhà thơ đa dừng lại ở đây, vì ngòi bút của UTL lúc nào cũng đoan trang mẫu mực. Viết để cho nguời đọc tự hiểu, tự muờng tuợng, do đó tôi đã hình dung đuợc da thịt trắng nuồn nuột của một nữ sĩnh đi duới con mưa. Tôi cắn chặt răng môi. Da thịt đi hoang. Xương tủy rập rờn trong thân thể.
Thơ của UTL thật lãng mạn nhưng chừng mực, dừng lại để nguời đọc phải tức tuởi, tò mò…
*Tạo Ân đa viết: “Ở Uyên Thúy Lâm, thế giới ão trải rộng và hấp dẫn hon đời thuờng vì lý trí phải lùi lại để dành chỗ cho tiếng nói của con-tim-ngọt-đắng của gặp-gỡ chia-ly…”
(NỖI KHÁT KHAO MỘT ĐỜI TÌM MÃI…, trang 234)
Nhà thơ, Nhà Văn Tạo Ân đã chỉ cho ta thấy cái bạo dạn phá cách trong tình ý của nhà thơ nữ UTL dã cho chúng ta đọc những dòng nghi mà nội tâm rất thóang…
“Ta bên nhau chung lời Thơ thân ái
Nguời bên nguời dòng nhạc đuợm nghia ân.
Đời tha phuong nhớ ngày xua có phải
Vọng cố huong hồn theo áng mây Tần.
Này đa qua đoạn truờng chinh máu lửa
Lạc mất nhau hun hút đa tàn hơi.
Đời dun rủi diễn đan này hội ngộ
Giữ chân tình, dù năm tháng mù khơi.
(Tri Ngộ, trang 5)
Xin Mời Quý Độc Giả, đọc bài :
“ Đoàn Quân Đi” (Trang 193),
Mùa Thu đã hoe vàng theo sợi nắng
Hoa cúc nở thờ ơ triền suối vắng
Mắt ai hoài xao động bóng quân đi
Chiến địa hoang tàn ghi dấu phân ly
Đuờng hành quân sục sôi miền nắng cháy
Ta biết em ngóng chờ tin chua lại
Đồng đội còn bên chiến luy hào sâu
Nên đời ta vẫn cách bến giang đầu
Ầm ào vọng phía truờng son vách núi
Đoàn quân đi chập chùng làn mưa bụi
Vẳng thôn xa nghe tiếng mẹ ru hời
Ngủ ngon con, cha về lúc yên vui
Trong gió lộng vang vó câu chiến mã
Nắng cháy da hay mưa rừng tơi tả
Tạm hiến thân này cho đến tàn hơi
Đâu thể buông guom súng ngủ bên trời!
Tháng năm qua tóc pha màu suong tuyết
Trong lớp nguời viết sử xanh hùng liệt
Tổ quốc truờng tồn qua Đinh Lý Trần Lê (9 chữ)
Thì em ơi, em cố đợi ta về!.
*Chỉ trong 20 câu thơ tự do, 19 câu 8 chữ và 1 câu 9 chữ. Tổng cộng 191 chữ. Nhà thơ đã cho ta nghe thấy …rừng, suối, lá, gió, trời, gió nắng, mưa, hoa, mắt em, mây, sợi nắng,, chiến địa, chiến lũy, giao thông hào, bến đợi, vách núi, mưa bụi, thôn xóm xa xa, tiếng mẹ ru con, guom súng, suong, tuyết, có cả một trang sử oai hùng…Thơ UTL có:
NẮNG:
“Mùa Thu đa hoe vàng theo sợi nắng”
Rồi:
“Đuờng hành quân sục sôi miền nắng cháy”
MƯA:
… “Nắng cháy da hay mưa rừng tơi tả”
GIÓ:
“Trong gió lộng vang vó câu chiến mã”
Thơ UTL cũng có suối, có vách núi:
“Hoa cúc nở thờ o triền suối vắng”
Vách núi:
“Ầm ào vọng phía truờng son vách núi”
Thơ UTL cũng mang đậm nét tình nguời:
“Ta biết em ngóng chờ tin chua lại”
Tình bằng hữu, tình đồng đội với những trăn trở của nguời lính:
“Đồng đội còn bên chiến luy hào sâu
Nên đôi ta vẫn cách bến giang đầu!”
Những kỷ niệm ùa về khi gặp lại nguời tình cu năm xua trên đuờng hành quân vội vã, ta đanh bỏ em lại:
“Thì em ơi, em cố đợi ta về!”
Thật vậy, có ai khỏi rơi lệ, khi đọc tâm tình của UTL qua lời thơ mà nữ sĩ đa viết:
Mẹ mãi mãi là ngôi sao cao cả không thể mất trong lòng mọi nguời. Mẹ thiêng liêng không có gì thay thế. Mẹ luôn là đề tài cao quí nhất không thể thiếu trong tâm hồn những nguời văn nghệ si. Như trong THI tập thơ UTL đa viết về MẸ rất nhiều:
“Mẹ vẫn nặng mang gánh nợ trần,
Xuân nào thăm thẳm mắt bâng khuâng.
Nhớ con biền biệt đồn xa vắng,
Thuong nuớc ngậm ngùi mong cách tân.”
(Mẹ và Quể Huong, trang 23).
Đọc bài thơ
Tôi có cảm giác như từ một nơi nào đó thật xa, tiếng nhạc rừng khuya vang vọng lại, mỗi lúc càng gần hơn, thanh âm nghe đìu hiu, xoáy vào tim óc làm tan nát lòng nguời đọc.
Tôi im lặng, trầm ngâm trong suy tư chìm nghỉm với điệu nhạc buồn và thả hồn mình theo từng giai âm với nỗi thuong đau, lắng sâu trong tâm hồn qua thơ của UTL như có tiếng nhạc: “-
Theo tôi đuợc biết UTL là một Nhà thơ đã thành danh ở hải ngoại. Nữ sĩ thuờng làm thơ về các nguời lính bị tập trung cải tạo trong những trại giam của Cộng Sản sau 1975.
Qua một vài bài thơ tiêu biểu, chúng ta thấy UTL luôn luôn trăn trở với cảnh đời Thương Binh, đau xót với vận nuớc đổi thay. Nhất là Mẹ VN phải chịu bao oan khiên của suốt chiều dài lịch sử.
Riêng bài thơ Lời Nguời Thương Binh là một tuyệt tác, bất hủ vì đó là một bài thơ hay mà khi chúng ta đọc đuờng như là một bản đại hòa tấu với muôn ngàn âm thanh lẫn lộn trong có tiếng nuớc chảy suôi dòng, có tiếng động của hoàng hôn tím thẫm, có tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi của dông bão, tiếng mưa chiều rít vang vọng, rồi nghe hồn mình đơn lạnh của Nguời Thương Binh trở về với năm tháng từ cuộc chiến xa xua…
“Tôi đứng lặng hoàng hôn tím thẫm
Nghe chiều buông mờ nhạt thinh không”
Những âm thanh đó, những âm thanh, quyện vào nhau thành một cõi hồn tê dại của Nguời Thương Binh, “Tàn phế còn đây cuộc sống thừa” như bản truờng ca bất hủ hòa với tiếng khóc của Nguời Thuong Phế Binh và tiếng nấc nghẹn ngào của Nguời tù cải tạo sau 75, bị nguợc đãi…
Trong một bài thơ khác, nhà thơ UTL chỉ viết có 6 câu thơ Lục Bát,, cũng chỉ vỏn vẹn có 42 chữ mà thi sĩ UTL đã tạo đuợc cả âm điệu của nhạc, gợi cho những cựu tù phải liên tuởng với nhiều âm thanh hòa lẫn trong đó có quang cảnh trại tù trong một chiều thu dần xuống của một khu rừng già nằm sâu trong những cánh rừng trùng trùng điệp điệp xa phố thị muôn dặm với vầng mây bay thật thấp mà đời tù tội thao thức từng đem từ năm này qua năm khác, rồi mơ về những chiến thắng từng giờ với nỗi nhớ nguời mẹ già, bày con thơ, cha già không nơi nương tựa. Khoảng không gian vô định vào một chiều thu tắt nắng, khi những vầng mây bay thật thấp rồi bỗng chốc có ai đó cất tiếng khóc làm cho các cành cây đang ngủ cũng phải thức giấc để lắng nghe và những chiếc lá rừng cũng phải khóc cho thân phận của Nguời Thuong Binh …
“Về quê sau cuộc chiến xuân xua
Tàn phế còn đây cuộc sống thừa
Tiếp nối đa bao mùa dông bão
Dãi dầu với sớm nắng chiều mưa”
(Lời Nguời Thuong Binh, trang 215)
Những bàng hoàng rồi cũng qua nhanh, tình yêu vẫn là giọt nuớc long lanh huyền ảo, cho dù đó là giọt nuớc mắt tinh yêu mặn đắng với kỷ niệm chập chờn, với ký ức bùi ngùi, với ngỡ ngàng nuối tiếc thì lòng thi nhân vẫn giữ lại chút xao xuyến để nhớ về. Một nơi với buớc chân trên cát, với sao đem, với tiếng sóng vỗ vào bờ của đem nao biển vắng. Và nơi đó bây giờ không biết anh ở đâu?!
“Tìm trăm phuong mỏi cánh chim
Buợt qua ải bắc, xuôi thuyền sông nam
Rừng sâu nuớc yhẫm suong lam
Ân tình mấy độ sắc huong thắm nồng.
Trách Ai ngày tháng phiêu bồng
Để nguời phương cũ còn phong nụ cuời.
(Tìm nhau, trang 220).
Làm sao mà tìm đuợc, khi nguời lính ra đi mải miết chua hẹn ngày về, nguời tình ở lại cũng chua một lời hẹn uớc… Đất trời đổ sụp, nguời lính chưa thua trận, nhưng nghiệt ngã đa phải bị vào tù, thì dẫu Nguời Yêu Của Lính cũng không biết đâu mà tìm…
Họ đa bị giam từ Trại Cải Tạo Lam Sơn, rồi cũng Sơn, rồi A30, rồi xác bị chôn vùi trong trong một khu rừng rậm nào đó thì biết đâu mà tìm…
Trong tâm hồn nhà thơ UTL chợt có những nỗi buồn bất thuờng. Đêm đêm duới ánh trăng xuyên qua song cửa sổ, nhà thơ chắc đã tìm bóng dáng ai trong tinh lặng, nhắm mắt lại để giữ nguyên vẹn hình ảnh đó khỏi xóa nhòa trong trí nhớ và đêm đêm trong giấc ngủ cô đơn, hồn nguời thi sĩ chết lịm trong đam mê mà nữ sĩ đã luu giữ đuợc. Những hình ảnh cô đơn đó, để mãi đến hôm nay nhà thơ viết lại theo trải nghiệm để có thể cho chúng ta một hoạt cảnh… có mây, gió, tiếng thương nhớ âm thầm, tiếng ru văng vẳng của tình khúc buồn dịu vợi.
Thơ UTL có nỗi nhớ hoang đuờng. Thơ UTL có bóng dáng ai đó trong khoảnh khắc khó quên mà nỗi nhớ tháng ngày chưa hết. Tình Nguời thi sĩ rất thủy chung…
“Gió lay cành biếc vang vang động
Hình bóng ai còn ngự đáy tim!
(Xao Xuyến Lòng Đon, trang 224).
Ai đó, nguời tình nào, nguời lính nào, hay nguời tù cải tạo nào mà đuợc cái hạnh phúc quá đỗi mà UTL vẫn còn dấu mãi trong tim.
Thơ Linh Vũ làm cho tôi mềm nỗi nhớ!
UTL là nhà thơ lãng mạn, nữ sĩ không quên và nhất định nhà thơ không bao giờ muốn quên bất cứ một ai.
“Tuởng đa trôi xa cùng tháng năm
Biết chăng thuong nhớ vẫn âm thầm
Thềm xua trăng giải mây phiêu lãng
Ta với niềm riêng đem lặng câm.
(Xao Xuyến Lòng Đơn, trang 224)
Thật vậy, trong Thi tập thơ nữ sĩ đã viết rất nhiều bài thơ thật lãng mạn, nhưng tâm hồn nhà thơ rất đoan trang, chừng mực, dù biết đợi chờ trong vô vọng, nhưng cái tình cao quý của nguời phụ nữ Việt Nam, nhất là vợ của những nguời tù duới chế độ cộng sản.
“Nuớc chia trăm ngả, đời trăm huớng
Sao vẫn hoài mong phút hạnh phùng.
(Thơ UTL trang 224)
“Ngày đó
Tai họa nào cắt đoạn đời anh,
Bão bùng nào vùi lấp chuỗi ngàyxanh!
Dêm anh khôngt quay về nữa.
Anh biết chăng bên góc trời mưa gió,
CCòn một nguời lặng lẽ thức chờ anh.
(Trở Lại Nghìn Năm, trang 65).
Tôi đọc những câu thơ trên với một cảm xúc thật mạnh. Òa vỡ!
Tôi nghe thấy rõ hình dáng của mõt thiếu phụ trẻ mất nguời yêu, trải ngthiệm qua những đêm thao thức chờ sáng, ngồi úp mặt trong lòng bàn tay, lắng nghe từng tiếng động nhỏ, đang âm vang, mà tuởng chừng như tiếng chân chàng về. Có những đem như đem nay, ai đó nghe lòng mình hối hả, rung rung giọt nhớ, ngồi thơ thẫn, nghi về nguời yêu, khi trăng mớm tình về, rồi chợt nghe cô đơn.
Trong những giây phút này, nguời vợ mới kịp nghi về cảnh đời hiu quạnh. Nguời vợ ngồi chông đèn leo lét. Ánh sáng đìu hiu, nhạt nhòa trong hơi thở dài. Buồn tênh!
Nguời viết rất cảm động vì tấm lòng cao cả của UTL đối với những ai đuợc nhà thơ UTL yêu, Ở đó có thể là hạnh phúc hay đau khổ của cuộc đời nữ sĩ vẫn luôn trân quí vì đó chính là sắc màu trong bức tranh và cuộc đời.
Hai muơi năm, ba muơi năm hay lâu hơn nữa sẽ có bao nhiêu đem? Thời gian cũng khá dài nhưng cũng không dài mà khi cuộc đời, hay sự đợi chờ vô vọng dù là buớc chân khe khẽ của ai đó bên kia nỗi nhớ, hay một nguời lính tình cờ cùng vui lối buớc, giữa buổi dừng quân…
Thật vậy, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo UTL đã viết lên những đặm nhớ vời vợi…
” Những đông xám lạnh buồn nơi đất khách,
Nhớ làm sao lửa ấm mái tranh chiều.
Nhưng tôi vẫn thích cái Nắng trong thơ UTL.
Trăm năm trong lòng nhà thơ UTL vẫn mong tìm… những giọt nắng. Lúc thì nắng trong lòng, rồi nắng sớm đầu hè…nắng tràn đầu ngõ.
Thơ của nữ sĩ UTL đã viết nhiều về nắng để thôi thúc Nắng vội vã về tim tôi để tìm về ký ức cũ và nắng gợi nhớ dòng suối xưa.
(Nắng nhẹ nhàng như giọt nhớ đơn côi. Tôi nhặt một hạt nắng lên trên hai đầu ngón tay, nắng vỡ vụn thành đôi. Một nửa lung linh như giọt nhớ – Mắt Em Tôi.
Nửa kia vụn vỡ như ai đang khóc. Ngỡ ngàng!)
Nguời Thi sĩ đã nhìn xuống bóng tối mênh mông, đôi mắt ai?… to, tròn, sâu hun hút như một loài hoa Phuợng tím, ai tìm thấy di vãng đang rạo rực trở về trong nỗi nhớ…
Ngọn đồi nào nhà thơ UTL đã dừng chân trong một chiều rất lạ mà nghe từng giọt đắng rền vang trong cổ họng.
” Phan đinh Phùng khi hoàng hôn giăng tím,
Một mình tôi trên lối cỏ lan buồn.
… Vì đa mấy dặm sầu về ngăn lối
(Về Qua Truờng Cu, trang 157)
UTL, đa dùng những chữ nghia quá đon giản, mộc mạc như tâm tình của Nguời…
“ Hàng sao cao vút xạc xào trao lời gió,
Suong lạnh đầyvà nhưng nhớ về theo,
Trên lối này khi nắng sớm mưa chiều,
Ngày xua buớc học trò bao vuong vấn”
(Về Qua Truờng Cu, trang 157)
Những từ ngữ rất giản dị như hàng sao, cao vút, reao lời, suong lạnh, trên lối này, học trò…”
…Những từ ngữ rất bình dân, đon giản, thô thiển nhưng rất linh động khi đuợc nhà thơ ghép lại thành thơ thì quả nhiên lại trở thành phong phú trong thi ca riêng biệt khó tìm thấy bất cứ ở đâu. Cũng nơi này, trong Thi tập thơ Trăng Nuớc Bến Bờ Xua, với 257 trang thơ, đuợc in ấn trên giấy thật dày, với bìa sách Trăng Nuớc trình bày thật trang nhã, hài hòa mà lời thơ – tim-nhịp- phách – từng giờ.
Làm sao Nhà thơ, Nhà Văn, Nhà Giáo, UTL có thể quên đuợc những chiều hành quân, dừng chân bên bờ rừng, nơi đây cũng có thể là gác trọ, để sáng hôm sau vội vã xâm nhập cứ điểm của địch với chiến thắng vang dội.
Tôi thấy vầng trán nhà thơ thật cao, với ánh mắt kiêu hãnh của một Nhà Giáo, năm xưa đã trải qua quá nhiều gian lao trong đời thuờng. Nhưng nơi trú ẩn bình an nhất vẫn là dòng sông Mẹ, nơi yêu thuong hạnh phúc nhất vẫn là vòng tay Mẹ chở che.
Trong bài “Mẹ Chờ Bên Bếp Lửa, trang 196), nhà thơ đã viết:
“Bao lâu rồi mẹ còn đây cô quạnh
Giữa thôn làng xa khuất tháng năm qua
Ngày nắng hạ đến chiều đông mưa lạnh
Lủi thủi một mình mẹ nhớ về xa.”
Lối so sánh của nhà thơ quả là phong phú.
Chiều về, nằm nghe tiếng sóng vỗ thì thầm trên dòng sông mẹ reo róc rách, trầm buồn, xa vắng, bên đời con tuổi dại. Cảnh đời thuờng của nhà thơ chảy miệt mài cả đến tuong lai và Mẹ của nhà thơ UTL đã tuới cánh đồng THƠ của nữ sĩ thật tuơi sáng và tóc Mẹ đã rụng trắng đầy vai, mà hồn nhà thơ hoang vắng … đìu hiu với những đám mây trôi lờ đờ thật thấp, bầu trời màu tím, màu tím của nhớ thuong. Tâm tu nhà thơ lững thững, chợt thấy nhớ Mẹ diệu vợi mà thả hồn theo mây bay lang thang … cuối trời.
“Bao tháng năm mẹ một mình một bóng
Khóc quê nhà và khóc lá xanh rơi!”
Thật vậy, trái tim mẹ cho tôi thành nỗi nhớ.
Cám on UTL, đã viết giùm tâm tư của tôi mà cũng có thể cho nhiều nguời khác, khi tuổi già, ngồi nhớ Mẹ:
Thơ UTL làm tôi nhớ đến Mẹ tôi vô cùng.
UTL đã mô tả tình mẹ thương con, lo lắng từ miếng ăn giấc ngủ, canh bắt từng con muỗi mỗi khi đem về làm tôi nhớ đến những ngày bị đọa đày trong lao tù CS.
Đêm đó, tôi đi lao động về muộn chỉ biết nằm lăn ra tìm giấc ngủ thật nhanh, nhưng đàn muỗi không chịu tha, đã thi nhau chích không ngừng nghỉ cái thân già còm cõi của tôi. Suốt đêm không ngủ đuợc, tôi thao thức nhớ đến mẹ già năm xưa ngồi canh chừng bắt từng con muỗi cho tôi an giấc. Bây giờ trong chốn lao tù mới thấy lòng mẹ bao la như biển cả. Giá như có Mẹ bên cạnh thì tôi đâu bị loài muỗi cắn nát thân tù.
Tôi đọc thơ UTL với một cảm xúc thật mạnh mẽ như nguời vừa nghe đuợc tiếng thơ.
UTL, thôi cứ để cho Thi tập thơ chấp cánh bay cao theo cơn gió lạnh năm nay 2015, trôi qua thật nhanh. Biết đâu trong một khoảnh khắc nào đó, dư âm của lời thơ sẽ quấn quít, quyện vào những giọt nhớ, thơm ngon trên môi, vẫn còn phảng phất đâu đó và biết đâu trong tâm hồn của nguời nữ sĩ, hiền hòa vẫn còn âm ỉ bóng dáng ai, đang đứng đứng đợi tại một cổng truờng điểm hẹn… ngày xưa ấy. Một cựu giáo chức chưa già với chất thơ trữ tình để có khi nàng phải khóc, ảo ảnh cả một đời nguời.
Mỗi một nguời đều có một cái gì đó để nhớ để thuong, để ru đời mình vào giấc ngủ no say. UTL cũng đã có những vết thuong đau chưa lành. Thơ nữ sĩ rất thanh thơát nhưng cho đến bây giờ vẫn còn nghẽn ở một chỗ nào đó trong những ngăn tế bào, mà nhà thơ thỉnh thơảng tuôn trào dòng nghi như nuớc tràn bờ. Nhờ vậy mà chất thơ của UTL, bao giờ cũng mang một chút ít hiện thực rồi đưa độc giả đến ngồi cạnh một thiên đuờng, bên bờ triết học sâu xa, mà nếu không chịu khó tìm những ý tuởng tiềm ẩn thì tuởng là đơn thuần nhưng thực chất lời thơ mang nghĩa bóng của đời thuờng.
Thơ UTL thật hay. Thanh thóat và tuyệt vời. Giản dị nhưng bao hàm trong đó còn chất chứa những cũng bậc của nhạc. Bài thơ “Đâu Còn Em Bên Tôi” đa đuợc Nhạc sĩ tài danh LMST phổ nhạc và tôi đã nghe đâu đó có tiếng chập chùng duới đáy ly cà phê buổi sáng vừa thức dậy./-
Duy Xuyên
Tacoma
7/5/15