VĂN

Suối Xưa – DUY XUYÊN

Duy-xuyên
Tacoma

Sáng hôm đó, trời đang mưa lất phất, chúng tôi vài chục tù nhân chính trị được thả ra về sum họp với gia đình, nhân dịp Lễ Độc Lập của nhà cầm quyền Cộng Sản.

Vác ba-lô đi nhanh ra khỏi cổng trại giam, tôi phân vân chưa biết đi về đâu, vì thời gian đó tôi vẫn chưa lập gia đình. Từ trại A-30 về Nha Trang, tôi không đủ tiền mua vé xe đò vì hồi đó, khi thả tù nhân chính trị về, trại cũng có phát tiền xe theo tiêu chuẩn công-nhân-viên-chức nhà nước, nhưng thực tế các hãng xe đò hoặc Sở Hỏa Xa, (xe lửa) đều bán vé chợ đen. Một vài anh em chúng tôi, có khiếu nại nhưng tất cả các giới chức trách nhiệm, đều từ chối, không chịu bán vé xe cho anh em chúng tôi, theo giá chính thức của công-nhân viên-chức và họ giải thích rằng: ‘Chúng tôi là tù nhân, không phải công-nhân-viên-chức, nên không được hưởng theo chế độ ưu đãi này.’

Do đó, tôi còn phân vân chưa biết đi về đâu, nên cứ vác ba-lô đi dưới cơn mưa của núi rừng không bao giờ dứt.

Mưa cứ mưa! Vào mùa này, thường thường vẫn là những ngày mưa dai dẳng không dứt, kéo theo những luồng gió lạnh tê đầu lưỡi.

Chợt tôi nhớ đến con bé sống gần ‘nhà máy xay gạo,’ có cha chết trong trại tù 51. Cô bé này muốn biết lý do chính xác về cái chết của ba cô ấy.

Nhớ lại chuyện cũ, những ngày đầu mới bị di chuyển về trại Cùng Sơn, Phú Yên. Đội chúng tôi bị phân công chở lúa đến Hòa Phong, một địa điểm cách trại 53 khá xa, nên khi đi xay lúa, chúng tôi được xe của trại tù chở đi.

Trưa hôm đó, sau 5 tiếng đồng hồ lao động cực nhọc, chúng tôi được nghỉ giải lao khoảng 15 phút.

Tôi ăn phần cơm trưa của trại phát rất nhanh, vì phần ăn theo tiêu chuẩn của trại cũng chẳng có gì để ăn lâu được.

Ăn xong, tôi tìm một góc hiên để ngả lưng cho đỡ mệt.

Đang mơ màng nửa thức nửa ngủ, bỗng có người đập nhẹ vào vai. Tôi giựt mình choàng mắt ra nhớn nhác nhìn quanh. Bên cạnh tôi, một cô gái khoảng 15- 16 tuổi, tay bưng một tô chè đậu đen, cô bé liếc mắt nhìn quanh rồi nói:

” Mẹ bảo bưng chè ra mời chú ăn. “

Tôi nghe nói đến chè, đã thấy thèm muốn ăn ngay. Tuy nhiên tôi còn đang lưỡng lự vì sợ tên cảnh vệ, dẫn chúng tôi đi lao động, lỡ nó thấy, chỉ còn có cách vào nhà cùm của khu biệt giam thôi.

Cô bé hiểu ý, nói nhanh: “Chú đừng sợ! ông cảnh vệ đang ăn cơm ở nhà chị Tâm, con gái ông xã đội trưởng ở cuối ấp, xa nơi đây lắm. Chú ăn ngay đi! Đừng sợ”

Thoáng chốc tôi đã nuốt ngấu nghiến xong tô chè, với một tốc độ phi thường, trả tô lại cho cô bé, tôi dùng tay còn bám đầy bụi bặm, lau miệng, để phi tang.

Tôi hỏi cô bé: “Làm gì có chè mà cho chú vậy?”

“Đám giỗ Ba cháu.”

Tôi hỏi nhanh: “Nhà cháu đám giỗ mà có nấu xôi không?”

“Có.” Cô bé đáp.

“Cháu về xin mẹ, cho chú một ít xôi được không? Chú đang đói lắm!”

Cô bé không đáp, thoáng chốc đã chạy nhanh vào nhà. Không bao lâu sau, cô bé trở ra, tay bưng một đĩa xôi, nấu với nếp trộn đậu đen. Nhanh như chớp, tôi bưng đĩa xôi, nhét vội vào lon ghi-gô (guigoz).

“Cám ơn mẹ và cháu nhé.”

“Có gì đâu mà chú phải cám ơn. Ba cháu cũng bị bắt đi tù như chú vậy.”

Vừa nói xong, cô bé bưng đĩa vội chạy nhanh vào nhà.

Tôi còn đang loay hoay ép thật chặt xôi xuống đáy lon ghi-gô, và ngụy trang bên trên bằng một gói thuốc lào, để may ra có thể che mắt được tên cảnh vệ, khi bị hắn kiểm tra, khám xét.

Cô bé mở ngay cánh cửa sổ, chỗ tôi đang ngồi và nói:

“Chú về trại, nhớ tìm hiểu giùm cháu, lý do tại sao Ba cháu chết?”

Tôi hứa: “Được. Nhưng ba cháu tên gì?”

” Thiếu Úy Nguyễn văn Tào. Trại 51.”

Cô bé nói khe khẽ: “Nhớ nghe chú, nếu có dịp trở lại đây để xay lúa, chú kể cho cháu nghe. Nghen chú.”

Tôi chưa kịp trả lời, thì có tiếng gọi của anh đội trưởng” “Tiếp tục lao động!”

Tôi thu xếp ống thuốc lào và vài ba thứ lỉnh kỉnh bỏ vào túi dết để đi ra nhà máy xay gạo, cách đó một vài căn nhà. Cô bé từ trong cửa sổ nói vọng ra:

“Chú ơi! Hay là khi được thả cho về, chú ghé lại đây, kể chuyện về Ba cho cháu nghe. Nghen chú!”

Tôi không dám trả lời vì sợ có người nghe thấy, nên ngoảnh mặt lại, nhìn cô bé và gật đầu, tỏ ý bằng lòng với lời đề nghị của cô bé.

Trong thoáng chốc, tôi thấy cô bé nở một nụ cười rất tươi, với ánh mắt rực sáng. Cô bé có làn da trắng mịn của một nữ sinh thành phố, chứ không giống như những đứa trẻ mặt mũi đen đủi ở khu nhà máy xay gạo này.

Về đến trại, hình ảnh con bé với mái tóc chải xuôi về phía sau, để một rãnh trắng, thẳng tắp, chia đôi mái tóc, với khuôn mặt trái xoan và … cái chết của ba cô bé, luôn ám ảnh trong tôi, những đêm dài về sáng thao thức, mất ngủ.

Tôi cố hỏi thăm tin tức về cái chết của Thiếu Úy Nguyễn văn Tào , nhưng tại trại 53, tuyệt nhiên không ai biết về cái chết của anh Tào..

Sau đó, rất may, trại 53 bị thất thu mì, nên Bộ Chỉ Huy trại 53, phải vay mượn mì của trại 51. Lán của chúng tôi lại bị phân công đến trại 51 để đào mì, do đó tôi đã gặp được anh tù đội trưởng, của trại 51, dẫn chúng tôi đến khu vực do lán anh phụ trách, để đào mì.

Anh đội trưởng người cùng quê với tôi nên khi gặp anh ấy, tôi hỏi tin tức về cái chết của anh Nguyễn văn Tào ngay. Tôi được anh kể lại như sau: “Anh Nguyễn văn Tào, bị một cành cây to ngã xuống, đè bị thương nặng, nên anh không thể tiếp tục lao động được. Nhưng tên cảnh vệ cứ bắt buộc anh Tào phải tiếp tục di chuyển theo đội đốn gỗ. Anh Tào không thể nào đi được, nên tên cảnh vệ cho rằng anh Nguyễn văn Tào là người trây lười lao động. Hắn nổ súng bắn chết anh Nguyễn văn Tào, sau một cơn thịnh nộ của hắn. Sau đó, hắn báo cáo với trại là anh Tào có ý đồ trốn trại.”

Nghe được câu chuyện, tôi ao ước gặp lại cô bé và sẽ kể về cái chết thương tâm của ba cô ấy. Nhưng từ dạo đó đến khi được ra trại, tôi không có dịp nào, trở lại nhà máy xay gạo Hòa Phong nữa.

Do đó, hôm được ra trại, trong lúc còn phân vân, chưa biết phải đi về đâu trước, chợt nhớ đến cô bé, nên tôi quyết định đi theo một chiếc xe trâu, trên đường trở về Hòa Phong, rất gần Trại A.30. Trại tù cuối cùng trong đời tù tội của tôi.

Đến Hòa Phong, tôi tìm nhà cô bé.

Đứng trước căn nhà tranh lụp xụp năm xưa, tôi nhìn lại cánh cửa sổ, chỗ cách đây 4 năm trước, tôi đã ngủ gà ngủ gật và được cô bé bưng cho tô chè, ăn hả hê, mà trong 6 năm tù tội, tôi chưa có lần nào được ăn no nê, ngon lành như thế.

Mọi vật cũng như cũ, nhưng vách tường có nhiều vết loang lỗ hơn. Cửa sổ đã thay thế bằng phên tre, có nhiều đốm trắng lổ đổ, lẫn lộn với màu vàng hoen ố của thời gian.

Tôi lên tiếng: “Có ai ở nhà không?”

Không có tiếng trả lời.

Tôi hỏi tiếp, giọng có phần lo lắng.

“ Có ai trong nhà không?”

Có tiếng người con gái trả lời: “Ai đó? Chờ tôi một tí.”

Chừng một phút sau, một thiếu nữ rất xinh xắn xuất hiện. Tôi chưa kịp nhận ra là ai. Thiếu nữ đã vồn vã hỏi:

“Ông … Ông mới được về hả?”

Tôi chưa kịp trả lời, cô gái đã nói tiếp: “Mẹ bảo … Ông không bao giờ trở lại đây nữa đâu! Vì các ông, ai cũng có gia đình vợ con. Nên khi được thả cho về, ai ai cũng vội vàng, vể sum họp với gia đình. Mẹ và tôi cũng có nhờ nhiều người, nhưng khi được thả về, không ai trở lại đây, kể chuyện về cái chết của Ba tôi cả.”

Tôi đáp: “Nhưng tôi có hứa với … cô … bé mà.”

Dường như cô gái không để ý gì đến lời nói của tôi, nên nhanh nhẹn hỏi: “Chắc ông đi đường xa, đói lắm rồi. Vào nhà nghỉ ngơi … tôi nấu cơm cho ông ăn nhé!”

Phần đói bụng, phần khát nước, nên tôi không ngần ngại, hỏi nhanh:

“Cô cho tôi một ly nước lạnh được không? Tôi khát nước từ sáng sớm đến giờ.”

Cô gái đi vội ra nhà sau và trở lại ngay:

“Xin lỗi ông nhé! Tôi vừa súc lu cho sạch, định ra suối gánh nước về nấu cơm thì ông vừa đến, nên bây giờ không còn một giọt nước nào nữa cả. Hay là ông và tôi, cùng ra suối. Ông uống nước suối cho mát. Còn tôi gánh nước về nhà, pha trà và nấu cơm cho ông ăn nhé.”

Tôi không do dự và đồng ý ngay.

Cô gái quảy gánh đi trước, tôi bén gót, lẽo đẽo theo sau.

Lúc bấy giờ tôi mới có dịp quan sát cô bé năm xưa kỹ càng hơn. Con bé giờ đây là một thiếu nữ trẻ đẹp, với độ tuổi gọi mời. Bước đi thon thả với dáng người mảnh mai.

Suối tóc bay bồng bềnh, thỉnh thoảng bị gió thổi ngược về phía trước, tóc dính vào môi miệng, làm nổi bật gương mặt trắng, mũi thẳng, với đôi mắt đượm vẻ buồn.

Đến một đoạn gần suối, cô gái dường như muốn đi chậm lại, để chờ tôi theo kịp nàng.

“Đến suối rồi đó!” Cô gái nhìn tôi, bẽn lẽn nói.

Tôi nghe tiếng suối róc rách. Gió thổi hiu hiu…

Đến bờ suối. Tôi dùng hai bàn tay chụm lại vào nhau, uống ừng ực mấy ngụm nước liền. Nước suối mát rười rượi. Thấy người khoan khoái, tôi đứng nhìn cô gái đang lội ra giữa dòng, để đôi chân trắng nuột, làm nổi bật hai bắp chân thon, dài đang khoe khoang với làn nước trong xanh, giữa một khung trời thơ mộng, tưởng chừng như một bức tranh với nét chấm phá tuyệt vời..

Tôi hỏi cô gái:

“Suối này tên gì cô … bé?”

” Suối Hứa.” Cô gái đáp.

Tôi ngạc nhiên: “Sao lại … gọi là suối Hứa?”

“Nào ai biết được. Chỉ nghe dân vùng này, họ bảo ai đã uống nước suối ở đây, phải hứa một điều.”

Tôi hỏi lại: “Nhưng hứa điều gì chứ?”

“Ai biết được. Vì ai hứa điều gì thì giữ kín điều đó, chẳng ai nói cho ai nghe, nên chẳng ai biết, ai đã hứa điều gì?”

Bỗng chốc cô gái làm như ra vẻ đã quên một điều gì quan trọng lắm. Cô gái nhìn tôi: “Ấy chết! Đáng lẽ trước khi uống nước suối này, ông phải hứa trước, nhưng đã lỡ quên rồi, bây giờ ông hứa cũng chẳng sao!”

Thấy tôi còn lưỡng lự, cô gái giục ngay: “Hứa đi ông!”

Tôi nhìn cô gái, lúng túng hỏi:

“Biết hứa điều gì đây?”

“Nào! Làm sao mà tôi biết được, ông muốn hứa điều gì với suối? Mỗi người ai lại không có một điều để hứa! Chẳng lẽ ông không có một lời hứa nào … với suối hay sao?”

Tôi tinh nghịch: “Vậy cô đã hứa điều gì?”

Cô gái đáp: “Tôi đã hứa một điều, mà điều ấy đến nay, tôi chưa thực hiện được.”

Cô gái thúc giục:

“Thôi mình phải về ngay bây giờ, để nấu cơm ăn, tôi biết ông đang đói lắm rồi. Hứa đi ông … rồi … mình về.”

Tôi chưa biết nên hứa điều gì với suối. Tôi còn đang suy nghĩ, cô gái làm ra vẻ nghiêm nghị, ân cần nói với tôi: “Để tôi tránh xa ra, cho ông hứa với suối, và chỉ có một mình suối mới lắng nghe lời thì thầm của riêng ông hứa với suối.”

Tôi sực nhớ ra là mình chưa biết tên cô thiếu nữ, vừa đẹp, vừa hiền, vừa tinh nghịch này.

Tôi hỏi: “Này cô gái … cô bé ơi! Tên cô là gì vậy?”

” Tên tôi là …! À! Mà trước khi tôi nói tên tôi. Tôi muốn biết tên ông trước đã.”

Tôi không chần chờ, đáp vội:

“Hải! Tên tôi là Hải. Cô gái hỏi lại: “Hải là biển, có phải không ông?”

Tôi đáp: “Đúng vậy. Còn tên cô bé … gái … là gì?

“Sông! Tên tôi là một dòng sông. Mẹ tôi thường kể cho tôi nghe. Tôi sinh ra và lớn lên tại một dòng sông, nước trong veo. Dân cư hiền hòa, chuyên nghề chài lưới.”

“Cô tên Sông, nên cô đẹp, xinh và hiền như một dòng suối nhỏ.”

“Cám ơn ông. Từ trước đến giờ, tôi chưa nghe ai đã khen tôi đẹp như vậy.”

Tôi nhìn cô gái dài lâu: “Này cô Sông. Mẹ cô đâu rồi?”

“Ông hứa với suối đi, rồi chúng mình về. Tôi sẽ nói về Mẹ tôi cho ông nghe.”

Để cho qua câu chuyện, tôi cũng chấp tay và đứng nghiêm nghị trước dòng suối, miệng lăm răm: “Suối đã cho tôi uống những ngụm nước ngon ngọt. Tôi hứa với suối. Tôi sẽ nhớ mãi dòng suối này.”

Hứa xong, tôi rủ Sông gánh nước về nhà.

Dọc đường tôi kể cho cô gái nghe về cái chết của ba cô ấy, nhưng Sông không lấy gì ngạc nhiên và nói với tôi:

“Một vài tù nhân có gia đình đang sinh sống ở đây, được ra trại trước, ai cũng kể về cái chết của ba tôi như thế. Có một điều tôi muốn biết, tên của gã cảnh vệ đã bắn vào đầu ba tôi nhưng tất cả đều không ai biết tên hắn. Vậy ông có biết tên của gã cảnh vệ đã bắn Ba tôi không?”

Tôi lắc đầu: “Tôi không biết!”

Tôi tự trách mình, tại sao lúc tôi gặp anh đội trưởng trại 51, tôi không chịu hỏi tên của gã cảnh vệ đã bắn chết ba cô Sông, có thể anh ấy biết được.

Trên đường về, cô gái hỏi tôi:

“Ông dự định về đâu?”

Tôi đáp: “Về Nha Trang.”

” Rồi sau đó làm gì?”

“Chưa biết?”

“Sao lại chưa biết? Ông không về thăm gia đình riêng của ông hay sao?”

“Tôi chưa có gia đình riêng.”

Tôi định kể cho Sông nghe chuyện tình của tôi và Biển, (1) nhưng tôi sợ cô gái sẽ tức giận nên tôi không đề cập gì về chuyện tình lận đận của Biển cho Sông nghe.

Về đến nhà, cơm nước vừa xong, vài giọt nắng đầu hiên đã ngả về chiều.

Tôi từ giã cô gái để ra đi nhưng Sông ngăn tôi lại và giải thích:

“Từ đây ra ngã ba Quốc lộ 7 rất xa. Ông phải đi qua 2 cánh rừng, có nhiều cọp dữ rất nguy hiểm. Vã lại xe đò chở khách đã đi về Tuy Hòa lúc 7 giờ sáng rồi.”

“Không sao! Tôi không sợ cọp đâu! Tôi sẽ đi ra ngã ba Quốc Lộ 7, ngay bây giờ và đón xe gỗ để về Nha Trang.”

Cô gái can ngăn: “Không được! Ông đừng đi. Sáng sớm ngày mai, ông nên đi theo các xã viên Hợp Tác Xã Nông Nghiệp, họ sẽ đi qua hai cánh rừng đó, để đến ngã ba Quốc Lộ 7, về Tuy Hòa nhận cá khô, đem về đây bán lại cho xã viên. Còn ông muốn đi ngay bây giờ, tôi sẽ đưa ông đi.”

“Khôngđược. Rồi ai sẽ đưa cô Sông về?”

Cô gái nhìn tôi nhoẻn miệng cười:

“Chưa biết ai sẽ đưa tôi về. Hay … ông …đưa tôi về.” Cô gái nói xong, nhìn tôi, cười như nắc nẻ.

“Ông đừng lo. Tôi nói đùa với ông đấy! Khi mình đến Tuy Hòa, tôi sẽ ở tạm tại bến xe chờ qua đêm. Sáng hôm sau, tôi về lại đây cũng được.”

Trước chuyện chẳng đặng đừng, tôi đành phải chờ đến sáng mai mới đi Tuy Hòa được.

Đêm hôm đó, chúng tôi ngồi bên nhau nói chuyện suốt đêm.

Tôi chợt nhớ đến mẹ cô bé, nên vội hỏi:

“Mẹ cô đi đâu rồi ?”

Cô gái đáp: “Mẹ đi lao động xã hội chủ nghĩa ở Công Trường Thủy Lợi, để vét mương, dẫn thủy nhập điền về đây … rồi.’

Tôi hỏi: “Chừng nào mẹ cô mới về?”

“Nếu không có gì trở ngại, 10 ngày nữa Mẹ mới về!”

Tôi ngạc nhiên vô cùng nhưng không dám có ý kiến gì, nên lái câu chuyện qua hướng khác.

Tôi hỏi Sông: “Cô Sông, gia đình cô đến đây khi nào?”

“Sau năm đổi đời, Ba bị bắt đi tù, Mẹ đang ở Cư Xá Sĩ Quan thì bị đuổi ra khỏi cư xá và họ ép buộc Mẹ phải đi kinh tế mới, lao động, làm ra của cải vật chất để nuôi sống gia đình và bản thân. Trước tình thế đó, Mẹ đành phải chọn nơi đây, để dễ thăm nuôi Ba.

Đợi Ba mãn hạn tù, trở về với gia đình, rồi sau đó sẽ tính chuyện tương lai. Nào ngờ, Ba đã chết thê thảm như vậy!”

Tôi ngậm ngùi không biết phải an ủi cô gái như thế nào, để làm giảm bớt nỗi khổ đau cùng cực của cô.

Nhìn thẳng vào mắt Sông, tôi hỏi:

“Lúc mới đến đây, cô Sông bao nhiêu tuổi? Học lớp mấy?”

“Dạo đó tôi 17 tuổi, đang học lớp 11 thì mấy ổng vào. Tôi phải bỏ học, để theo mẹ về đây.”

” Cô Sông mới học đến lớp 11 mà ăn nói thông minh, chững chạc quá!”

“Tuy bỏ học nhưng tôi vẫn tiếp tục học tại nhà với Mẹ.”

Tôi hỏi : “Mẹ cô là giáo sư ?”

“Vâng! Nhưng Mẹ đã ‘mất dạy’ từ lâu rồi!”

Tôi ngạc nhiên, hỏi: “Mất dạy là sao?”

“Mấy ổng ghép tội gia đình Sông là Ngụy Quân Ngụy Quyền nên không cho Mẹ dạy học nữa và mấy ổng bảo Mẹ của Sông là mất dạy.”

ấy giờ tôi mới hiểu, đó là ngôn ngữ của xã hội, xã hội chủ nghĩa, ưu việt, đỉnh cao của trí tuệ loài người, luôn luôn phát minh nhiều thứ ngôn ngữ không có trong học đường!”

Tôi nhìn qua khung cửa sổ. Ngoài vườn những đóa hoa cà đang nở rộ, sắc màu tím.

Cảnh vật thơ mộng. Trăng lên! Ngàn sao lấp lánh. Đêm hôm đó, tôi thấy Sông đẹp dịu dàng, làm tăng thêm vẻ đẹp gọi mời. Tình yêu cũngđang lẩn quẩn đâu đây.

Tôi rủ Sông:

“ Mình ra suối ngắm trăng được không, Sông? “

Lời đề nghị hững hờ của tôi, khiến Sông đỏ bừng đôi má. Nàng ngập ngừng một lát rồi đáp:

“Được chứ.” Sông nhìn tôi, nói khe khẽ:

” Nhưng đừng đi quá xa … nhé! “

Tôi đang tìm hiểu, “ đừng đi quá xa,” có ý nghĩa gì, Sông đã bước ra cửa, hướng dẫn tôi đi qua một con đường mòn, giữa hai hàng cây rợp lá.

Không gian lặng lờ, cuốn hút theo âm thanh chìm nghỉm của rừng núi thâm u, cùng với tiếng nói ngọt ngào của Sông, đang đưa tôi đi trên con đường dốc đá, dẫn đến một thung lũng rộng. Nơi đây có nhiều hoa dại đang nở vàng rực, soi sáng một góc trời.

Chúng tôi ngồi bệt xuống rừng thông, dày đặc lá mục, cành khô, chen lẫn với loài hoa trinh nữ xanh rờn, đang e thẹn khép kín lá cành vì bước chân chúng tôi giẫm đạp.

Bên nhau, chúng tôi vừa đi vừa chuyện trò thân mật, như đã quen nhau từ lâu lắm rồi.

Chúng tôi hướng về ngọn đồi phía bên kia bờ suối cạn. Sông buồn buồn kể chuyện về hoàn cảnh của nàng nhiều hơn cho tôi nghe. Tôi được biết mẹ nàng và nàng đang sống bơ vơ giữa vùng đất hoang vu này.

Mùa hè tưoi thắm với những nụ hoa rừng chen lối đi. Con đường có lúc bị cắt ngang bởi một con suối nhỏ, nước trong vắt, đôi ba con cá đang cố gắng lội ngược dòng.

Chúng tôi rủ nhau qua bên kia sườn đồi thoai thoải hóng mát, ở đó còn có trời cao, còn có rừng núi chập chùng, cảnh hùng vĩ của trời cao và gió lộng, dưới ánh trăng mờ ảo.

Bầu trời trong vắt, không một gợn mây. Ánh trăng treo lơ lửng như chiếc lồng đèn, chiếu ánh sáng dịu dàng, huyền ảo. Bóng đen của Sông trải dài bên bờ suối lộng gió. Dưới ánh trăng lờ mờ, tôi thấy được nụ cười duyên dáng của nàng.

Đến một suờn đồi dốc đứng, lại không có chỗ bấu víu, bỗng nhiên tôi đưa tay cho nàng nắm tay tôi. Sông nắm tay tôi thật chặt, như nàng đã quen tôi suốt cả đời nàng. Bàn tay Sông nhỏ xíu, thắm màu nắng. Nàng thuộc về nơi đây. Tôi dìu nàng bước qua một khe suối. Nàng bấu vào kẽ đá để trèo lên đồi. Rồi như sợ sệt điều gì, Sông khom người xuống, giả vờ nhặt một viên đá cuội, ném xuống suối, làm bóng của chúng tôi đang đứng gần một thân cây cổ thụ, phản chiếu dưới dòng suối, quyện lại, quấn quít bên nhau, rồi tan biến ra thành những mảnh vụn, lung linh oà vỡ trong sóng nước mông mênh.

Nàng lặng im, đứng nhìn những vòng tròn mong manh, giao động, lăn tăn đang vỡ tan trên mặt nước. Sông dường như mãn nguyện, đứng ngay bên cạnh tôi, bàn tay nàng đôi lúc chạm tay tôi. Mấy ngón tay kia nàng vén lại một vài sợi tóc trên môi vì gió thổi bay bay bám trên môi miệng nàng.

Bên nhau chúng tôi đứng trong yên lặng, nàng trông cô đơn bên dòng suối nhỏ.

Tóc nàng đen hơn như khi tôi bắt gặp lần đầu.

Dưới ánh trăng, tóc Sông như một dải lụa chờn vờn trên sóng nước nhạt nhòa.

Tiếng suối chảy róc rách, vọng về từ rừng núi xa xa, trong khi xóm làng chìm trong giấc ngủ no say.

Trăng roi nhè nhẹ, ngả dần trên xóm vắng, tỏa sáng con suối nước chảy xuôi dòng. Tình yêu phần nào cũng đang gần gũi, hiện diện quanh đây.

Chúng tôi dừng lại, ngồi nhìn trăng rằm, tỏa ánh sáng lung linh trên lưng đồi. Trăng càng lúc càng tỏ hơn, bầu trời mỗi lúc mỗi xanh hơn, thơ mộng hơn.

Khi trăng chiếu thẳng vào suối tóc, lóng lánh, tựa hồ như những sợi tơ vàng, mỏng manh, trải dài trên vai nàng, bất giác tôi nói với Sông:

“ Tuyệt vời! Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi mới thấy mái tóc xõa dài … dưới ánh trăng.”

Sông giả vờ làm ngơ như không nghe tôi nói gì.

Sông hỏi tôi: “Ông tên Hải, vậy hải còn có nghĩa là biển nữa phải không ông?”

Tôi nghe Sông đề cập đến Biển, tôi giật mình vì nghĩ rằng có thể Sông biết được chuyện tình của tôi và Biển. Nhưng tôi giữ bình tỉnh, đáp vội:

“Cũng gần đúng như vậy, do đó người ta thường ghép chữ ‘hải’ đi liền với nhiều chữ khác, có nghĩa thuộc về biển như: hải đăng, hải cảng, hải quan, hải lý …”

Sông hỏi tôi: “Còn chữ Sông có thể ghép được những chữ gì?”

Tôi đáp nhanh: “Sông Hồng, sông Ngân, sông Thu Bồn, là tên những dòng sông đẹp, nổi tiếng của đất nước ta. Ngoài ra còn có Ngân Hà, Thiên Hà nữa, cô Sông có biết không?”

Sông nhìn tôi dài lâu, rồi hỏi:

Còn chữ ‘hải-hà’ là gì … là nghĩa gì …ông Hải nhỉ?”

Tôi đáp: “Hải hà … là biển … là sông … là suối …”

Sông nói với tôi: “Mẹ bảo các ông ‘lính Cộng Hòa’, học giỏi, thông minh, nên biết nhiều chuyện.”

Tôi mỉm cuời, đáp:

“Cũng có những chuyện … các anh không rành lắm?!”

Nàng hỏi: “Như chuyện gì?”

Tôi nhìn nàng, dò xét:

“Như …chuyện … Sông đã có người yêu chưa?”

Nàng giải thích: “Ở nơi đèo heo, góc núi, cuối chân trời này, tụi con gái như chúng em, làm sao có người yêu được!”

Tôi ngơ ngác, hỏi: “Sao vậy?”

“Như anh biết rồi đó! Nơi đây là một thôn xóm hẻo lánh, thỉnh thoảng mới có một vài tên du kích xã vác súng về bắn chim, chẳng có đứa nào biết nói được một lời yêu … thương.”

Tôi thở dài, ngao ngán. Sông đưa câu chuyện về hướng khác.

Ngồi bên bờ suối, Sông hỏi tôi: “Hồi chiều ông đã hứa gì với suối?”

Tôi ngập ngừng: “Tôi đã hứa … tôi sẽ nhớ suối.”

Sông nhìn tôi thật dài lâu, như dò xét, nàng hỏi:

“Thật vậy sao?”

Tôi đáp: “Thật chứ!”

Nàng tinh nghịch: “Như vậy, ông đã hứa … ông sẽ nhớ tôi rồi đó, nhớ nghen ông …Hải!”

“Sao lạ vậy?” Tôi hỏi.

“Vì tên tôi là Hà, là Thu-Hà. Suối vào thu. Hà là Suối cũng là Sông. Ông đã hứa với Suối, tức là ông đã hứa với Sông, rồi đó! Nhớ nghen?”

Tôi hỏi: “Cô tên Thu-Hà, tại sao khi sáng, cô nói với tôi, tên cô là Sông?”

Nàng tinh nghịch, giải thích:

“Hồi còn đi học, mỗi đứa con gái như tôi, đều có một tên riêng để gọi. Các bạn đặt tên tôi là Sông, Đứa nào tên Bạch Vân thì được gọi là Mây trắng, ai tên Thủy thì được gọi là Nước. Tên Sơn thành Núi. Bạch Tuyết là Tuyết trắng. Và tên anh là Hải, được đặt là Biển.”

Tôi cười: “Các cô nghịch quá! Từ nay tôi gọi cô Sông là Thu-Hà nghen?”

Nàng mỉm cười và gật đầu rất khẽ.

Tôi không muốn tiếp tục dấu tên thật của mình với Thu-Hà, tôi nhìn nàng, có ý mong

nàng thông cảm:

“Tôi là Duy-Xuyên. Tên tôi là một dòng sông cô đơn!”

Nàng hỏi lại:

“Sao hồi sáng, anh nói với Thu-Hà, anh tên là Hải.”

Tôi giải thích: :Thật ra, tôi chỉ muốn ghé lại nhà Thu-Hà theo như lời hứa, rồi lại đi. Để lỡ ra có ai tò mò muốn biết tên tù nào đã ghé nhà Thu-Hà thì cũng không biết rõ tôi là ai. Nên tôi đã nói dối Thu-Hà đó! Mong Thu-Hà thông cảm.”

Nàng cười:

Thật ra, Thu-Hã đã biết tên anh, từ lbốn năm về trước rồi.”

Tôi ngạc nhiên: “Sao lạ vậy?”

Tại anh không để ý đó thôi, chứ hồi đó, khi anh đang dựa lưng vào tường hút thuốc lào, một người bạn của anh, đã đến và nói chuyên với anh:

“Xuyên! Anh cho tôi phi một tẩu với nhé?”

“Này! Phi đi! Phi cho đã đời đi! Quên hết những nỗi nhọc nhằn đi”

Tôi nhớ ra. Và khen nàng có trí nhớ thật tốt.

Nàng cười:

“Do đó mà Thu-Hà biết tên anh từ dạo đó. Cho nên khi anh nói anh tên Hải, thì Thu-Hà phải nói tên Thu-Hà là Sông. Nhưng nếu anh nói tên anh là “dòng sông cô đơn”thì Thu-hà sẽ nói tên Thu-Hà là “Dòng Suối Bơ Vơ”

Tôi thấy Thu-Hà ngừng lại chừng một giây rồi bước vào vùng tối, cây cối rậm rạp, che phủ bầu trời.

Chúng tôi len lỏi dưới hàng phi lao, đôi khi tay tôi chạm vào tay nàng. Tôi định nắm bàn tay nhỏ xíu của nàng trong tay tôi, nhưng tôi chưa dám. Tôi đứng lại dưới một gốc cây cổ thụ, nàng đứng bên cạnh, tôi nhìn mắt nàng dài lâu trong khi đó Thu-Hà đang níu một cành lá xanh non, mơn mởn. Chiếc áo rộng, ngắn tay, vai áo hơi tuột xuống bờ vai, nên tôi thấy làn da mềm, trắng dưới cánh tay nàng. Thu-Hà bỗng nhiên mỉm cười hỏi tôi.

” Anh ngắm mắt Thu-Hà từ nãy giờ, có thấy gì không?”

Không nói gì, bất giác tôi ôm nàng vào lòng, hôn lên môi nàng. Thu-Hà tựa vào ngực tôi. Tôi hôn lên tóc nàng nghe môi mình tê dại.

Dáng Thu-Hà thon, mảnh khảnh trong chiếc áo lụa ngắn tay màu tím da trời.

Mái tóc dài mượt mà, được cài bằng chiếc kẹp ba lá, buông dài đến lận cuối thắt lưng, gió thổi mái tóc Thu-Hà lăn tăn như một dòng suối đang trôi nhè nhẹ trên vai nàng.

Tôi yêu nhất là màu mắt của nàng. Thu-Hà cười bằng mắt.

Nàng đưa tôi đi từ gốc cây này đến cụm đá khác, với tấm lòng cuồng nhiệt, yêu thương mà tôi không bao giờ tin có thể xảy ra trong hoàn cảnh như thể tôi đã chết trong trại tù và được sống lại trên một dòng suối quạnh hiu, ở một nơi không bị cuỡng bức lao động vất vả, cực nhọc ngày đêm hoặc cô đơn trong những đêm gió lạnh, ngồi co ro nhớ Mẹ già, trong chiếc mền mục nát, đắp không đủ ấm.

Sương xuống quyện vào tóc nàng. Tôi ngắt một chiếc lá khoai môn, to như vành nón lá, đưa cho Thu-Hà. Tôi ân cần nói với nàng:

“Thu-Hà che đầu lại, sương xuống lạnh, làm ướt tóc em!”

“Không đâu!” Nàng đáp: “Em thích sương rơi như thế này. Em không tin sương sẽ làm ướt lạnh tóc em.”

Tôi nắm tay nàng trong tay tôi và đứng chết lặng như một pho tượng, tôi cảm thấy mùi thơm của tóc đang ướt đẫm sương khuya, phảng phất trên môi miệng nàng. Tôi định hôn môi Thu-Hà.

“Anh Hải!” Nàng nói, đầu nghiêng nghiêng một bên: “Đừng làm em sợ!”

Tôi cảm thấy hơi ấm của thân thể nàng đang chờn vờn, quấn quýt trên da thịt tôi. Tôi hôn lên mắt nàng, một bên rồi bên kia nữa. Tôi run lên, tại cơn sốt rét rừng, hay tại hạnh phúc chợt đến mà tôi vừa bắt gặp.

Đêm nay lạnh như đêm qua, còn trong trại tù, mỗi tối vẫn buồn và có mưa rơi xoàn xoạt trên mái tranh. Đêm nay tôi dành trọn cho Thu-Hà, tình yêu vừa chớm nở.

Chúng tôi thong dong đi dọc theo con suối, nước reo thì thầm và cả hai đứa chúng tôi cố leo lên lưng đồi xoai xoải gần đó. Tôi tưởng chừng như hai đứa vẫn đi mỗi chiều quanh trại tù, đâu có dấu vết của kẽm gai, bãi mìn, vọng gác, hầm chông với vài tấm bảng gỗ, sơn đen, vẽ sọ người màu trắng, nằm chồng chéo trên hai cánh tay quái dị, như đe dọa tù nhân chính trị nào còn có ý đồ trốn trại.

Trong giây phút này, tôi ước mong sẽ được thức suốt đêm để đi bên cạnh Thu-Hà.

Rừng núi vắng tanh, như ngày tôi tìm đến nhà đứa con gái bé nhỏ. Mắt tôi mờ lệ với đầy hình ảnh của Thu-Hà, vì ở đây, rừng núi quạnh hiu, không có ai hết, ngoại trừ nàng. Ngón tay tôi đan trên tóc Thu-Hà. Tay tôi ôm vòng lưng nàng, không gian tràn ngập, hình dáng Thu-Hà.

Nàng dẫn tôi qua một thung lũng rộng mênh mông. Đàn cò trắng chưa chịu đi ngủ, vẫn còn đang nô đùa bên nhau, trông thật vui mắt. Cây cối xanh tươi, rực rỡ dưới ánh trăng. Thu-Hà xoay tròn người hớn hở nói: “Em thích vùng trời, mây nước ở đây nhất.”

Bỗng nhiên tâm hồn tôi mọc cánh lâng lâng.

Dưới vầng trăng mờ ảo, tôi thấy Thu-Hà vừa lãng mạn vừa đẹp tuyệt vời.

Nàng nói thỏ thẻ bên tai tôi:

“Anh à! Em không chấp dĩ vãng, nhưng nếu anh muốn tình cảm mình được lâu dài với em thì Thu-Hà xin anh hãy tôn trọng em.”

Nàng ngập ngừng trong giây lát, giải thích thêm:

“Ý em muốn nói, anh hãy vứt bỏ những kỷ niệm của người tình cũ.”

Tôi xích lại gần Thu-Hà hơn, dự định sẽ kể cho Thu-Hà nghe về chuyện tình của Biển, để Thu-Hà có một khái niệm về tôi, nhưng tôi không đủ can đảm, kể chuyện ấy cho Thu-Hà nghe.

Đôi khi nàng đưa ngón tay trỏ vào vành môi, ngăn khi tôi có ý định van xin nàng.

Thu-Hà thầm lặng chẳng nói một lời nào. Tôi đắm đuối nhìn nàng, dài lâu, không dứt. Nàng bẽn lẽn vội quay đi chỗ khác, vừa nhìn trăng, vừa bước xuống đồi.

Tôi nghe nàng thì thầm:

“ Tuyệt vời! Em thích trăng treo lơ lững trên lưng đồi như thế này!

Tôi nhìn về phía nàng chỉ, vầng trăng đang từ từ lên cao, nhưng vẫn còn treo lơ lửng phía sau rừng thông, soi sáng một vùng dưới thung lũng. Bất giác làm tôi tưởng như có hỏa châu bắn lên, soi sáng cho một tiền đồn, lẻ loi nào đó phía bên kia sườn đồi quạnh hiu …

Dưới ánh trăng vằng vặc, một cặp thỏ rừng đang chờn vờn, đùa giỡn bên nhau, trên một bờ đá trống. Tôi vừa hét to, vừa gọi Thu-Hà: “ Lại đây, mau lên, nhìn kìà! Một cặp thỏ đang tung tăng dưới thung lũng kìa! “

Nàng xoắn xuýt:
“ Dễ thương quá! ”

Tôi hỏi thăm dò: “ Thu-Hà có yêu … ai … chưa? ”
Nàng đáp: “ Có!

Tim tôi òa vỡ.

Tôi hỏi: “Yêu ai?”

Nàng thản nhiên, đáp:

“Yêu …Ba, yêu Mẹ .”

Tôi đứng sau lưng Thu-Hà, nhìn gáy nàng, tim hồi hộp, đập mạnh. Chưa biết nàng có hiểu câu hỏi hững hờ của tôi không, nên tôi thúc giục:

“ Nói đi Thu-Hà, nói đi … yêu ai nữa? ”

Thu-Hà vẫn đứng im, thầm lặng, nhưng tôi biết rất rõ nàng đã hiểu tôi muốn nói gì.

Không bao lâu, nàng nhìn thẳng vào mắt tôi, mỉm cười, rồi nhìn lên bầu trời: “Tôi yêu những vì sao lạc …” môi nàng mấp máy, “ tôi yêu -một dòng sông cô đơn …”Thu-Hà im lặng trong giây lát, bỗng chốc nàng cất giọng thanh thản, rõ ràng, thật to … từng tiếng một: “ và … tôi yêu… những người lính Cộng Hòa như anh nữa. “

Trời đất quay cuồng! Rừng thông lặng thinh. Sao đêm cũng tan biến nhanh, để lắng nghe âm thanh dồn dập, huyền hoặc đó!

Tôi cũng đứng ngất ngây, hồn như lạc lỏng, chìm nghỉm đến mấy phút, tôi hỏi nàng:

“ Thật vậy sao Thu-Hà? Lần đầu tiên anh nghe được lời ấy! ”

Tôi vừa nói vừa choàng vai nàng. Mặt Thu-Hà tái xanh, e thẹn, định bỏ chạy. Tôi không dám làm nàng hãi sợ, nên buông Thu-Hà ra.

Dưới ánh trăng mờ ảo, tôi thấy ngực Thu-Hà no tròn, phập phồng theo hơi thở, nhịp nhàng lên xuống. Máu thịt, xương tủy tôi dâng trào như ngọn sóng triều dâng trỗi dậy.

Tôi muốn ghì Thu-Hà vào lòng mình thật chặt. Tôi nhìn nàng, gương mặt Thu-Hà vừa đẹp, vừa đoan trang, chen lẫn vài nét lãng mạn, gọi mời. Tôi nghe tiếng Thu-Hà rời rạc, hổn hển. “Đừng Hải! ”

Tôi ngậm môi thật chặt, kiềm hãm cuồng si đang thác loạn. Tự chủ được mình, tôi cất tiếng vang vọng, bên một phiến đá cheo leo. Tôi tha thiết van xin nàng: “ Thu-Hà, tôi yêu em!”

Nàng mỉm cười, không đáp. vội vã quay gót trở về nhà.

Tôi muốn chạy theo, ôm nàng vào lòng, nhưng nàng đã khuất sâu vào chồm cây thâm u, nặng trĩu lá cành.

Còn lại một mình, tôi lẽo đẽo theo sau về nhà nàng. Dọc đường lòng mãi ngẩn ngơ, song tôi cũng cố hái vài cánh hoa rừng, để tặng nàng mà thấy lòng mình miên man, rộn rã, dạt dào tình yêu thầm kín.

Tôi trở về nhà Thu-Hà, để gặm nhắm niềm vui vô hạn, vì hạnh phúc của mình sao mà to lớn quá đỗi. Nhìn những hàng cây hai bên đường trụi lá, đang ngủ, thương ơi là thương.

Về đến nhà, thấy Thu-Hà ngồi tư lự, tôi không biết nói với nàng những gì. Để cho bầu không khí bớt căng, tôi nhìn nàng, nói khẽ: “Hoa rừng tặng Thu-Hà đây. ”

Nàng đưa tay nhận hoa. Trong khi đó tôi vẫn chưa chịu buông đóa hoa ra. Mỗi đứa nắm một bên. Tay trong tay, chúng tôi nhìn nhau suợng sùng không biết nói gì. Tôi nâng nhẹ tay nàng. Thu-Hà để yên bàn tay mềm mại của nàng trong lòng bàn tay tôi. Chợt có tiếng gió đập nhẹ vào cánh cửa, nàng giật mình. Thu-Hà bẽn lẽn, e thẹn rút tay về. Tôi ngây ngất nhìn đôi môi bóng mọng của nàng. Khe khẽ tôi nói: “ Anh hái hoa rừng tặng Thu-Hà đó! ”

Nàng đỏ bừng đôi má, thẹn thùng cúi đầu xuống bẽn lẽn trong giây lát, nụng nịu đáp:

“ Đẹp! Tuyệt vời! Lần đầu tôi được tặng hoa. Cám ơn nhiều!”

Thu-Hà nhận hoa, úp mặt sát vào những cánh hoa rừng màu vàng, làm cho khuôn mặt nàng rạng rỡ hơn.

Tôi định đặt lên mái tóc Thu-Hà một nụ hôn dài lâu, rồi ôm nàng vào lòng, hôn ngấu nghiến lên người nàng những nụ hôn nồng cháy, đê mê, dị thường, pha lẫn nước mắt hân hoan nhưng tôi chưa dám, tôi thở dài, mặt buồn rũ rượi.

Thu-Hà thoăn thoắt bước vào bếp, nói vói lại:

“ Hải, anh uống trà nhé!”

Thở dài, mặt buồn thiu, không nói nên lời, tôi lặng im vài giây, rồi như đã yêu nhau từ thuở nào, tự nhiên tôi xưng anh và gọi Thu-Hà bằng em:

“ Ừ! … Cho anh trà, pha đậm em nhé!”

Nàng hơi ngạc nhiên khi nghe tôi dùng chữ ‘anh’ trong câu nói ấy, như thể chúng tôi đã yêu nhau tự bao giờ.

“ Em biết.” Nàng cười tươi, che kín những khoảng trống trải trong lòng, vừa bước ra bếp vừa ngoảnh đầu lại.

“ Chờ em một tí. ”

Mấy cành củi chưa khô, không bén lửa kịp, khói tỏa mù mịt. Một chập lâu sau, củi bắt đầu bén, lửa cháy nghe bì bọp, tỏa sáng một góc phòng, soi rõ nét mặt Thu-Hà đỏ bừng, tươi mát …

Ấm nước bắt đầu reo, nàng vét từng chút trà vụn trên tay, bỏ vào bình, Thu-Hà đứng lặng thinh pha trà.

Hơi nóng của củi lửa chờn vờn trên da thịt Thu-Hà, hòa với tiếng tim tôi đang đập mạnh. Òa vỡ. Bồi hồi.

Ánh trăng chênh chếch ngoài vườn chiếu vào mắt Thu-Hà long lanh, êm ả, tựa hồ như trong thẳm sâu của đáy mắt, còn sót lại một vài tia hy vọng mong manh của tuổi đời.

Nhấp một ngụm trà thơm, tôi nhỏ giọng hỏi Thu-Hà: “ Em có người yêu chưa?”

Nàng thở dài,đáp:

“ Biết để làm chi? Chắc gì khi chia tay, anh nhớ đến em, đứa con gái ở góc núi, cuối chân trời này?”

Thu-Hà mỉm cuời.

Tôi hỏi Thu-Hà:

“ Em đã yêu ai chưa?”

Thu-Hà đáp: “Ngày xưa, tôi đã có một lần hẹn hò, để người đi, nhớ trở về thăm tôi.”

Tôi hỏi: “Thu-Hà đã thử chưa?”

“ Có! Trong cuộc tình chia tay bốn năm trước. Tôi đã không muốn ngước lên, để thấy ai đó, đang nhìn thẳng vào mắt mình … và hiện tại, đời sống cô đơn của tôi là nơi đây, với tháng ngày mong chờ! ”

Tôi nhìn thẳng vào mắt Thu-Hà, để biết chắc nàng nói thật, cùng một cảm nhận da diết nhưng chen lẫn giữa nhớ thương và mong chờ.

Tình cảm của chúng tôi như lửa củi khô bắt cháy thật nhanh sau những giây phút dồn nén, dò dẫm nhau …

Tôi giải thích với nàng: “Bây giờ không phải là thời gian trách móc nhau, vì chưa ai hiểu đuợc ai, mà hãy nhận định quá khứ mình đã lỡ bỏ buông trôi, để ngay bây giờ mình phải tìm lại nhau, trong những ngày còn lại …”

Thu-Hà chưa yêu ai và cũng không có ai yêu tôi như nàng.

Có ai đã biết, thời gian sẽ không bao giờ làm xói mòn được tuổi thanh xuân, của một thiếu nữ, dưới mắt nhìn của người đan ông đang có mối tình lận đận như tôi, thật khó lòng vun xới cho chính mình một tình yêu mộng mị cuối đời.

Mãi đến một đêm trăng, khi hồn tôi đi lang thang, trở về tìm thăm Thu-Hà, nàng đã rụt rè đón nhận nụ hôn đầu đời, tôi trao cho nàng. Có những đêm như đêm nay, tôi muốn xiết chặt bờ vai của nàng, trong vòng tay ân ái của tôi. Nhưng khi tôi đang dự định ôm hôn nàng … thì Thu-Hà đã biến mất, dưới hàng cây đang ngủ, dẫn về nhà nàng, trên con đường mòn, ánh trăng soi rõ bước đi thon thót của nàng.

Thu-Hà đưa mắt nhìn tôi, hỏi:

“ Còn anh? Đã có người yêu chưa? ”

“ Có, mà anh không biết người ấy có yêu anh không?”

Tôi nhìn nàng dò xét và nghe lòng mình ngập ngừng, lâng lâng nhè nhẹ, không gian nhạt nhòa, òa vỡ…

“ Ai vậy? Giới thiệu đi.” Thu-Hà vẫn ngượng ngập trong cách xưng hô với tôi.

Ngoài khung cửa sổ, ngàn sao rừng thắp sáng bầu trời. Phố xá đang ngủ say, mà sao chúng tôi còn thức, vu vơ nhìn nhau trong yên lặng, khát vọng, đợi chờ … nhau.

Nhìn Thu-Hà thẩn thờ, tôi châm củi vào bếp. Tôi im lặng, một lúc, kéo ghế xích lại cho gần Thu-Hà hơn, tôi nhìn mông lung vào mắt nàng, nơi đây cất giữ bao nhiêu nỗi sầu, ước mơ và hy vọng của cuộc đời.

Tôi cầm tay nàng, tim nghe hồi hộp. Nhấp một ngụm trà thơm, tôi thẩn thờ, ngập ngừng khe khẽ nói:

“ Muốn biết thật sao?”

Đêm đó, tôi thấy đôi mắt Thu-Hà đang bối rối không dám nhìn thẳng mắt tôi. Bỗng dưng tôi muốn chồm người qua ôm Thu-Hà.

Tôi đặt ly trà trên mặt bàn, ngồi xuống bên cạnh nàng. Tay phải đỡ nhẹ lưng nàng, tay kia tôi nâng ly trà đưa vào môi, mời mọc nàng.

Bất giác nàng thở dài.

Tôi hỏi: “Thu-Hà sao vậy?”

Nàng không trả lời, tay Thu-Hà đỡ tay tôi, đang bưng ly trà, đưa sát vào môi, Thu-Hà liếm từng giọt nhỏ trên vành ly, còn sót lại một vài mảnh vụn của xác trà.

Thu-Hà bẽn lẽn, thẹn thùng không rút tay về, nhìn tôi không nói, nhưng đôi mắt nàng chứa cả hàng trăm ngàn lời trong ánh mắt yêu thương đó. Thu-Hà vội quay mặt ra cửa sổ, nhìn trăng đang khuất dần sau hàng câu đang thiêm thiếp ngủ. Thu-Hà giả vờ như không nghe tôi nói gì, nhưng thật sự chúng tôi đã bén hơi nhau và tình hồng đang ngây ngất hằn lên, rạo rực từng phút từng giây, tận cùng trong xương tủy.

Tình cảm của hai đứa như lửa củi khô bắt cháy thật nhanh, sau những giờ dồn nén, dò dẫm nhau.

Càng về khuya, sức sống về đêm càng tỏa khắp nơi, như những giai tầng, mà thanh âm vút cao, réo gọi, như tình yêu thắm đậm vào da thịt Thu-Hà, với những giây phút lặng lẽ, đợi chờ.

Thu-Hà thật tươi. Nàng cuời bằng môi. Nàng cười bằng miệng. Nàng cuời bằng mắt.

Nàng đang yêu và đuợc tôi yêu.

Tôi biết mình yêu Thu-Hà từ đêm trăng mộng mị bên dòng suối Hứa. Đôi mắt to ngơ ngác đã cuốn hút hồn tôi, những đêm về sáng, mất ngủ, nằm trăn trở, thức trắng đêm với suối tóc, bờ vai thon, gầy của Thu-Hà.

Ngày vui rồi cũng phải qua nhanh. Tôi chia tay Thu-Hà, lên đường về thăm Mẹ già đang đợi đứa con tù tội của Mẹ trở về.

Ngày tôi đi, Thu-Hà đứng trên phiến đá xanh, nàng thẫn thờ nhìn theo tôi cho đến khi bóng dáng của nàng chỉ còn là một vệt đen nhỏ nhoi cuối chân trời.

Tôi từ giã nàng với nỗi thương nhớ trong lòng.

Có những đêm mộng mị, hồn ai dẫn hồn tôi, đi lang thang đầu ghềnh, hốc núi, tìm nàng khắp phố phường, mà những nẻo thương, ngõ nhớ, vẫn vắng bóng, hiu quạnh, dang dở tình sầu, với những lần mộng du, tình cờ hội ngộ, để thấy lòng mình rộn rã, và tôi lủi thủi ra đi biền biệt, để nàng ở lại rừng núi hiu quạnh, thôn xóm xa xưa, đơn độc một mình.

*****

Thu-Hà! Em là hiện thân của tình yêu sống động, em cũng là người tình không chân dung vì chưa lần nào mình nói chuyện tương lai, mà anh đã gói ghém, mang theo hình hài, bóng dáng Thu-Hà, với hành trang nặng triu, mà bao giờ, em cũng có một chỗ đứng, vững chắc, trong tâm tư đang giẫy chết trong anh.

Trong những tháng ngày xa nhau, anh mới kịp nghĩ về em. Những đêm trăn trở, với bóng tối dày đặc, che phủ cuộc đời, nỗi nhớ nhưng ray rức, những thôi thúc đột ngột, với những ham muốn tận cùng xương tủy thúc dục, anh muốn viết cho em một vài dòng thăm hỏi, nhưng không biết, bây giờ em có còn nghĩ đến anh không?

Có những đêm trăn trở, tâm tư kéo về với âm thanh lắng đọng, trong một thoáng giây muộn phiền, dẫu xa xôi, anh vẫn ấp ủ trong lòng, rồi nâng niu từng mảnh vỡ của ký ức, nhớ thương về chốn cũ, thương nhớ tên từng con suối nhỏ, nhớ từng vĩa hè xưa. Nhớ nhà máy xay gạo, em vội vã bưng cho anh tô chè, dĩa xôi. Con hẻm băng ngang nhà em, gốc hè với bụi cây, hàng hiên vách đất, tường đan bằng phên tre loang lỗ. Nhớ từng mái tranh tơi tả, phủ rêu xanh, xám xịt, tường nhà em quét vôi vàng đậm, và nhớ … nhớ em ngập tràn thân thể.

Nhiều đêm, anh vẫn nguyện cầu, cho ‘ Thành Phố Biển ‘, có Thu-Hà, thần tượng của tình yêu ngập nắng, để anh đỡ nhớ, đỡ thương em.

Giờ đây tim anh òa vỡ với những rung động bùi ngùi.

Ước gì giờ này, có em bên cạnh, để anh vuốt lại những sợi tóc mây lòa xòa, đang vắt ngang trán em, hôn nhẹ lên môi em, để nghe tiếng em thở đều và nghe thấy răng môi em ngào ngạt, thơm ngon.

Vùng trời nhớ thương bỗng nhiên lũ lượt tràn về trong tươi mát nhưng cũng không khỏi vấn vương một chút ngậm ngùi, nghẹn ngào trong tức tưởi vì niềm vui chưa trọn, mà nỗi buồn man mác, xâm chiếm tâm hồn với những đêm dài thao thức, khó ngủ, gợi cho anh nhớ đến em ngập tràn xương tủy.

Mùa mưa ở đây, thật buồn, Thu-Hà ạ. Nhưng cũng có những đêm sương xuống lạnh, mà sao hồn anh vẫn còn lang thang, mải miết, tìm về nhà em, trên con đường đất đá gồ ghề …

Đêm hôm đó, anh dìu Thu-Hà trở về nhà, dưới hàng cây xanh.

Vừa đến con ngõ cụt, một cơn gió thoảng qua, rồi mưa như trút nước từ trên trời rơi xuống.

Anh ngữa mặt lên, mây đen đang vần vũ, bất giác anh ghì chặt Thu-Hà vào lòng. Em ép sát, đầu tựa vào vai anh. Anh đứng im, nghe mùi hương của tóc, anh cúi xuống, liếm những hạt mưa đang đọng trên môi em, mà nghe hạnh phúc cuồn cuộn, tràn ngập tìm về tâm tư.

Anh hôn Thu-Hà, đời bỗng thấy mềm môi.

*******

Về địa phương với Mẹ già 84 tuổi, tôi mới phát giác ra hầu như mẹ tôi đã già sanh ra lẫn.

quên điều này nhớ cái kia, lẫn lộn các thứ lung tung. Do đó, tôi xin công an cho tôi được nhập khẩu chung trong hộ khẩu của Mẹ; để tôi có thể săn sóc Mẹ già.

Công an địa phương cho tôi tạm trú, nhưng không cho nhập khẩu thường trú tại địa chỉ của Mẹ tôi.

Đời sống của tôi thật lận đận. Cả ngày chỉ quanh quẩn trong nhà.

Cảm thấy lấn cấn trong lòng vì chỉ lẩn tha lẩn thẩn, suốt ngày chả làm được việc gì nên hồn, ngoại trừ tôi chỉ biết khuya sớm săn sóc mẹ già.

Hoàn cảnh thật vô cùng buồn chán. Một phần vì nhớThu-Hà, phần khác công an khu vực ngày đêm theo dõi mọi sinh hoạt rất bình thường của tôi, nên cuộc sống thật vô vị.

Một tuần lễ, sau khi ‘Ra Trại’, về sum họp với Mẹ già, vào một đêm tối, tôi nằm trằn trọc, trăn trở suốt đêm, không sao ngủ đuợc.

Tôi nhìn ra khe cửa sổ, mấy con đôm đốm lập lòe trong bóng tối. Trong ánh sáng lờ mờ, tôi trông thấy hai bóng đen lẩn quất, lấp ló ngoài vườn, trong đêm khuya như kẻ trộm. Tôi lớn tiếng, hắng giọng hỏi: “Ai đó!”

Trong bóng tối có tiếng trả lời: “Công an khu vực xét hộ khẩu. Mở cửa nhanh lên!”

Tôi vội mở cửa, 2 công an bước vào nhà. Một trong hai người này hỏi tôi:

“Đêm hôm khuya khoắt mà vẫn còn thức à! Sao không ngủ đi! Có ý đồ gì đây?”

Công an họ nói lấp lửng, lập cà lập cập, ai mà hiểu được họ muốn nói gì.

Sau đó, họ trao cho tôi một giấy ‘Bố Trí Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa’.

Nhận giấy này, tôi hiểu ngay, là mình phải đi đào mương để làm thủy lợi, trong vòng 15 ngày. Ai nhận được lệnh đi ‘lao động xã hội chủ nghĩa’ theo kiểu này, phải tự túc mang theo gạo, mắm muối, kể cả mùng mền, chăn, chiếu….

Sáng sớm hôm sau, tôi trình diện Ủy Ban Nhân Dân Phường, được xe tải chở đến công trường Thủy Lợi Đá Bàn thuộc huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

Đang đào mương được 2 ngày, thì anh du kích Phường đến gần tôi, lân la làm quen, gạ chuyện:

“Anh có muốn tôi thuê người để làm lao động thay thế cho anh không?”

Tôi hỏi: “Tôi phải trả bao nhiêu tiền?”

Anh du kích đáp: “Một ngày 20.00 đồng.” Anh ta nói tiếp: “Anh đã làm được 2 ngày. Vị chi còn lại 13 ngày, nhưng ngày cuối cùng là ngày thứ 15, chúng ta chuẩn bị trở về, nên anh khỏi bịt rả tiền ngày ấy. Anh chỉ trả tiền 12 ngày, tổng cộng là 240.00 đồng.”

Biết gã du kích lợi dụng cơ hội để liếm láp chút ít, nên tôi đồng ý ngay, và hỏi lại anh ta: “12 ngày đó tôi trở về nhà với mẹ tôi được chứ” Anh du kích đáp: “Ngay bây giờ, tôi có thể cấp phép cho anh về thăm nhà, nhưng không được ngủ lại ban đêm tại nhà anh, vì đã được phân bổ đi làm nghĩa vụ lao

động xã hội chủ nghĩa thì anh không thể có mặt tại địa phương được, nhưng anh muốn đi đâu thì đi, miễn là ngày thứ 15, anh phải có mặt tại đây trước 6 giờ sáng, để tập họp, điểm danh và nhận giấy ‘Hoàn Thành Xuất Sắc Nghĩa Vụ Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa’; do đồng chí Chủ tịch Phường trao tặng.

Tôi giao tiền cho anh du kích và vội vã về thăm Mẹ già.

Ngay chiều hôm đó, tôi biết không thể ở lại với Mẹ già lâu hơn nữa, nên lợi dụng dịp may này, tôi đón xe khách chạy đường dài Nha Trang – Hà Nội để đi Tuy Hòa, rồi đến Hòa Phong tìm thăm Thu-Hà.

Tôi xuống xe tại Tuy Hòa, ngủ lại qua đêm ở phòng trọ của bến xe.

Sáng hôm sau tôi theo xe gỗ đi Hòa Phong.

Trưa hôm đó, khi đến Hòa Phong, Thu-Hà đang dầm mình gieo mạ dưới ruộng lúa. Tôi bước xuống vũng lầy, lội bùn xềnh xệch đến bên nàng. Tôi nhìn Thu-Hà, tóc nàng đang xõa bờ vai gầy, tim tôi đập mạnh. Thu-Hà quay lại nhìn thấy tôi, nàng hết sức ngạc nhiên vì sự hiện diện của tôi tại nơi đây.

Sững sốt trong giây phút, Thu-Hà bỏ bó mạ non rơi xuống ruộng. Vòng tay mở rộng, nàng chạy vội đến bên tôi. Thoáng chốc, tôi ôm hôn nàng dưới vùng trời, ruộng, nước mênh mông.

Một vài nông dân nhìn tôi ngơ ngác song họ cũng không có thái độ gì. Tôi choàng vai Thu-Hà trong giây lát. Đến lúc này nàng vẫn còn bỡ ngỡ không thể nào tin rằng tôi đang đứng trước mặt nàng. Thu-Hà rất đổi ngạc nhiên nên không thốt nên lời. Nàng phủi nhẹ một vài vết bụi đường lấm tấm trên áo tôi.

Thu-Hà nhỏ nhẹ nói: “Em đã không thể nào ngờ được, anh đã về đây. Em cứ nghĩ anh không bao giờ còn có dịp trở về đây để thăm em!”

Tôi đưa tay chùi nhẹ những vết bùn trên trán nàng.

Tôi nói: “Từ ngày xa em, ngày tháng sao mà dài đăng đẳng, hở em?”

Thu-Hà không trả lời song tôi cảm thấy dường như Thu-Hà đang rơi trong vòng tay tôi. Trìu mến, tôi xiết chặt vai nàng.

Nắng tỏa sáng lung linh trên vai, trên tóc, trên môi nàng, cho tôi cảm giác như mình đang trong một giấc ngủ mơn man, mơ hồ nào đó!

Chúng tôi rủ nhau sánh vai về nhà nàng. Con đường dốc đá, thoai thoải, dưới bầu trời chói chang những giọt nắng hồng.

Tôi nghe thấy thoang thoảng mùi hương tóc nàng, quyện với mùi thơm của mạ non, phảng phất đâu đây, tưởng chừng như đang toát ra, quanh quẩn trên môi miệng nàng.

Không ai nói với ai một lời nào, vì cả hai đứa chúng tôi, cũng không thể nào tưởng tượng được đã có những giây phút tìm nhau, hội ngộ thần tiên như thế này.

Thu-Hà nhìn tôi mỉm cười, tay nàng sờ soạn túi áo để tìm xâu chìa khóa.

Tôi tiến tới đứng trước mặt Thu-Hà và mở cánh cửa đan bằng tre, loang lổ màu thời gian.

“Vào nhà đi anh!” Nàng nắm tay dẫn tôi vào túp lều tranh, vách đất của mẹ nàng.

Tôi nhìn Thu-Hà, âu yếm, nói: “Cám ơn em.” Tôi liếc mắt nhìn Thu-Hà.

Nàng nhỏ nhẹ,ân cần nói với tôi: “Ở lại đây với em, anh nhé. Em rất vui mừng khi anh trở về đây. Anh biết không? Thu-Hà rất cô đơn khi vắng anh! “

Nàng đứng thẫn thờ trước mặt tôi.

Thu-Hà hỏi tôi, với vẻ ngờ vực: “Ở lại đây với em, anh nhé. Anh hứa đi!”

Tôi đáp: “Anh yêu em! Nhưng anh không thể nào ở lại đây với em, vì anh còn Mẹ già và hiện tại anh đang bị quản chế của chính quyền địa phương.”

Thu-Hà thở dài ngao ngán, nàng thầm lặng không nói gì.

Tôi ngắm mắt nàng dài lâu, nhỏ nhẹ nói:

“Em có chịu kết hôn với anh không?”

Nàng gật đầu, sung sướng: “Vâng.” Thu-Hà nghiêm nghị trả lời: “Hải, tôi yêu anh.” Nàng ngã vào tay tôi: “Em mãi mãi không bao giờ quên anh.” Hai tay Thu-Hà ôm choàng cổ tôi, nàng vồn vã hỏi: “Có thật như vậy không anh?”

Tôi hôn ngấu nghiến môi nàng. Tôi nghe hơi thở Thu-Hà hổn hển, ngập ngừng.

Nụ cười thoáng qua trên môi nàng: “Thật vậy hả anh?”

Tôi xiết nàng chặt hơn, hôn nàng dài lâu: “Sao lại không thật! Hở em?”

Thu-Hà nở nụ cười hãnh diện, thỏa mãn ngập tràn thân xác nàng.

Đêm hôm đó, chúng tôi rủ nhau thăm dòng Suối Xưa. Tôi dìu Thu-Hà đến một khúc vắng, nước suối trong veo, chảy lăn tăn trên những mõm đá. Tiếng suối róc rách, tiếng gió thổi vi vu. Không gian lắng xuống, dường như chỉ có Thu-Hà và tôi còn đang đùa giỡn bên nhau trong không gian tĩnh mịch này.

Tôi rủ Thu-Hà tắm suối. Nàng còn bỡ ngỡ, không chịu. Thu-Hà chỉ ngồi trên một tảng đá lớn, đong đưa hai chân đùa với nước.

Một chập lâu sau, nàng dùng chân tạt nước vào tôi.

Lặn xuống thật sâu,đột nhiên trồi đầu lên, tôi bất ngờ tạt nước vào Thu-Hà. Nàng cười vui vẻ. “Đừng tạt nước! Em lạnh.”

Vài giọt nước suối trong vắt, từ mái tóc nhiễu xuống, chảy dọc theo đôi má trắng ngần, từ từ lan ra thân áo bà-ba màu tím hoa cà phía trước ngực, thắm nước, dính vào da thịt Thu-Hà. Qua làn vải mỏng tanh , ngực nàng no tròn, vun cao, ẩn hiện lấp ló, sau chiếc áo bó sát ngực.

Tôi cắn chặt răng môi. Da thịt đi hoang. Từng nhịp đập của con tim bồi hồi, muốn òa vỡ tan tành.

Từng nhịp thở xôn xao. Xương tủy rập rờn trong thân thể.

Dưới chồm sao rừng lấp lánh, làm tăng thêm vẻ đẹp tươi mát của nàng.

Thu-Hà vẫn thản nhiên, đùa giỡn với tôi như không hay biết chuyện gì đã xảy ra,

trông Thu-Hà vừa đẹp vừa thơ ngây vừa khêu gợi làm sao!

Bất giác tôi kéo tay Thu-Hà xuống dòng suối trong xanh.

Chúng tôi đùa giỡn bên nhau trên sóng nước mênh mông.

Dưới ánh trăng ngà ngọc, Thu-Hà hiền, xinh xắn như dòng suối nhỏ, tôi đứng ngầy ngật bên nàng.

Trăng chiếu sáng một góc rừng. Đồi núi mênh mông, hai đứa chúng tôi quấn quít bên nhau.

Thu-Hà nhìn tôi dài lâu, nụng nịu hỏi:

“ Người Việt mình có câu: ‘Uống nước nhớ nguồn.’ Anh đã uống nước của dòng suối này! Vậy anh có nhớ em không?”

Một chùm sao trời soi sáng con suối về đêm, bóng Thu-Hà chập chờn trên sóng nước. Tôi ngửa hai tay, lùa bóng nàng thành một vòng tròn nhỏ. Tôi cúi xuống, vốc nước suối trắng xóa, trong hai bàn tay, mà tưởng chừng như những hoa suối nhỏ li ti, có mang theo hình hài nàng. Tôi uống ừng ực, từng ngụm nước, nghe hồn mình chơi vơi.

Nhìn Thu-Hà đắm đuối, dài lâu. Tôi thì thầm bên vai nàng:

“Thu-Hà! Em thấy chưa? Anh đã nuốt hết thân thể em và cắn da thịt em ra thành hàng ngàn mảnh vụn. Anh đã muốt thân xác em vào xương tủy anh, để không bao giờ… anh có thể mất em được.”

Nàng mỉm cười: “Có thật vậy không anh?”

“Sao lại không!” Tôi đáp.

Tắm xong, Thu-Hà rủ tôi ngồi trên một phiến đá trắng, phẳng phiu, nằm bơ vơ ven suối.

Bên nhau, hai đứa ôn lại những mẩu dĩ vãng tươi mát, mơ hồ nhưng khó quên, bốn năm về trước.

Khi vành trăng khuất vào giữa một vầng mây tím, bầu trời dường như tối sầm lại. Gió hiu hiu, thổi lạnh từ mé rừng vào chỗ chúng tôi đang chuyện trò…

Thu-Hà bảo tôi: “Quần áo ướt, nên em lạnh. Em qua mé rừng, vắt áo cho mau khô. Anh nhìn xuống suối. Nhớ nhé, đừng lén nhìn! Em giận đó! Hứa đi!”

Nói xong, nàng đưa ngón tay trỏ, dài, thon, nhỏ xíu, cho tôi nghéo tay nàng. Thu-Hà đi thẳng vào mé rừng gần đó… Tôi nhìn dòng suối, nước đang chảy bơ vơ. Một vài chiếc lá vàng, rập rình theo dòng, không biết trôi về đâu …

Chừng một chập lâu sau, nàng chưa trở lại. Không biết chuyện gì đã xảy ra với nàng, tôi hoảng hốt nhìn vào mé rừng.

Tôi chết lặng, Thu-Hà đang xoay lưng về phía tôi. Nàng đang vắt áo, dưới ánh trăng chờn vờn. Thu-Hà bỏ ngỏ một khoảng thân thể ngọc ngà trắng nuột,

Thoáng chốc, tôi đắm đuối nhìn nàng, rồi vội xoay người, xuống suối như lời nàng căn dặn. Tôi ngồi lắng nghe từng chuyển động, từng rung cảm trên da thịt với những ý nghĩ vu vơ và nghe như mình vừa bị hụt hẫng trong không gian vô tận.

Bất giác, tôi hét to, réo gọi: “Thu-Hà ơi! Em đẹp như một nàng tiên đang tắm suối!”

Nàng vội vã trở về chỗ tôi đang ngồi. Thu-Hà trách:

“Em đã bảo … sao anh không nghe em?”

Tôi chối leo lẻo: “Nào! Anh có làm sai ý Thu-Hà đâu?!”

“Hồi nãy anh đã nói gì thế?”

Tôi vỗ về nàng: “Anh nói, em đẹp như một nàng tiên đang vắt lụa bên dòng Suối Tiên!”

Nàng nghiêm nét mặt: “Sao biết em đẹp như một nàng tiên đang tắm suối?”

Tôi cười giả ngơ để phân bua:

“ … Tiên cũng chỉ đẹp bằng em là cùng!”

“ Cái ông này! Ghê thật! Đã nói câu đó bao nhiêu lần rồi? Và đã thề thốt với bao nhiêu người rồi?”

Tôi lục lạo khoảng trống của ký ức… Giữ bình tỉnh, nghiêm nghị tôi trả lời:

“ Chỉ Một Lần Này! Chỉ Một Mình Em Thôi.”

Tôi đắm đuối nhìn Thu-Hà. Mắt nàng lung linh dưới ánh trăng mờ ảo. Tia mắt tỏa màu tím long lanh, tựa hồ như một dòng suối nhỏ, nước trôi lững lờ.

Tôi nhỏ nhẹ nói: “Không những nhớ Thu-Hà mà anh đã không thể nào quên, dòng ‘Suối Xưa’ này, em ạ!”

Thu-Hà được tôi nịnh, nàng cười thỏa mãn. Thu-Hà đã không biết xương tủy tôi đang thúc giục từng nhịp sống khơi trào… rập rình trong tôi.

Hình ảnh Thu-Hà với hai má ửng hồng hây hây dưới ámh trăng hè tươi thắm đã làm ngây ngất hồn tôi.

Nhan sắc chín mùi của nàng ở vào tuổi gọi mời … hừng hực sức sống, đã làm tim óc tôi điên dại. Tôi say sưa, háo hức với bóng hình kiêu sa, đẫy đà, như mời gọi… cuốn hút từng tế bào mà nhựa sống dâng trào trong thân thể tôi thúc giục.

Không kiềm hãm được cuồng si đang thác loạn, tôi van xin nàng: “Em …”

Tôi chưa kịp nói hết lời, Thu-Hà đã đưa ngón tay trước môi, bảo tôi đừng nói thêm gì nữa: “Nghe Thu-Hà. Em thương.”

Tôi nhìn mái tóc, mượt mà, đang trải dài trên vai nàng, như bóng mát của cây trứng cá đơm dầy trái chín mọng đong đưa, cạnh cái lu mà hàng ngày nàng vẫn gánh nước suối về.

Thu-Hà cười hồn nhiên với ánh mắt hun hút đợi chờ.

Bỗng chốc, bên trảng dốc, một cặp nai từ trong mé rừng rủ nhau ra uống nước. Chúng ngơ ngácđứng ngửa cổ lên trời nhìn trăng, sau đó chúng âu yếm, liếm lông nhau.
Thu-Hà reo to: “Anh thấy chưa! Nai cũng biết ngắm trăng thanh! Kia kìa!”
Tôi thì thầm bên vai nàng: “Em đừng nói to, nai sợ! Để chúng thì thầm, tựtình bên nhau!”
Trong khi Thu-Hà còn đang thẫn thờ nhìn hai con nai đang âu yếm liếm lông, so mỏ nhau, tôi vuốt tóc Thu-Hà, rồi hong tóc nàng dài lâu, dưới bầu trời giăng tua tủa hàng vạn ánh sao đêm. Nghe hạnh phúc tràn về.

Tôi hỏi nàng: “Hôm trước, bên dòng Suối Hứa, em có nói với anh: “Thu-Hà đã hứa một điều với dòng Suối Hứa, nhưng em chưa thực hiệnđược! Đó là lời hứa gì vậy em?

Nàng trầm tư một lúc, thong thả trả lời:

“Em nghĩ, anh không nên biết lời hứa của THu-Hà trong lúc này!”

Tôi ngạc nhiên: “Sao vậy?”

Nàng đ áp: “Em nghĩanh cũng không thể nào giúp được gì cho em!”

Tôi càng ngạc nhiên hơn:

“Chuyện gì? Nói thật đi! May ra, anh cũng có thể giúp Thu-Hà!”

“Em biết! Em không cần đến anh! Em phải làm theo ý em!”

Tôi bồn chồn, gặng hỏi:

“Chuyện gì? Cứ nói đi! Anh muốn biết ngay bây giờ.”

Nàng ngập ngừng, dõng dạt từng tiếng một:

”Trả thù!”

Tôi ngơ ngác:

“Trả thù ai? Và tại sao lại phải trả thù?”

Nàng nghiêm nghịtrả lời:

“Tay chúng váy máu! Chúng phải trả nợ máu!”

Tôi hiểu ngay, Thu-Hà muốn nói với tôi, nàng muốn trả thù ai rồi. Tôi ngao ngán:

“Không nên Thu-Hàạ! Em nên bỏ ý định đó đi! Dù em có giết được một tên giặt cỏ, em cũng không thể nào thay đổi được cả một guồng máy của bọn bạo quyền. Em biết không! Hàng chục triệu thằng giặc cỏ mà dân tộc ta cần thanh trừng, chứ không phải chỉ giết một tên cảnh vệ đã bắn chết Ba em làđủ.”

Tôi an ủi nàng: “Chúng cũng sẽ tự hủy diệt nhau thôi! Và đến một lúc nào đó, tự chúng sẽ thanh trừng, chém giết nhau và nhân dân sẽ vùng lên, đòi lại những gì mà chúng đã cướp đoạt của ta.! Em yên tâm đi! Đừng nuôi ý nghĩ “trả thù” đơn giản như em đã chất chứa lâu nay!”

Tôi biết lối giải thích của tôi không thể nào thuyết phục được nàng, song trong những lúc như thếnày, tôi chỉ cần làm cho tâm hồn nàng lắng xuống …

Nàng ấp úng: “Nhưng em hận lắm!”

Tôi giải thích: “Không phải chỉ có một mình em đã căm thù chúng, mà cả một dân tộc Việt đang hờn căm chúng, trong đó cũng có anh, có em có cả những phiến đá, những thân cây, chim chốc cũng đang sôi sục căm thù chúng.

Tôi vuốt tóc Thu-Hà, dỗ dành.

Tôi chỉ cho Thu-Hà cánh rừng đang ngủ, im lìm không một âm thanh chuyển động.

Tôi nói: “Em nhìn kìa! Rừng cây đang khóc nên cũng không buồn thay lá!

Thân cây nghẹn ngào. Dòng suối đang nức nở. Tim em sôi sục. Lòng anh căm thù. Hàng chục triệu người đang khóc …

Con phố nhỏ, nơi em cư ngụ quá đổi bơ vơ cũng đang buồn.

Cây trứng cá, nằm gần cuối sân sau nhà em. cũng đang nức nở, quạnh hiu.

Thôi em đừng buồn nữa. Chờ mai kia, mốt nọ, dân tộc mình sẽ hạnh phúc hơn.”

Lá vàng úa ven rừng bị gió xoáy ưỡn mình lên. Tim tôi bị bóp nghẽn như có ai cào xé.

Trăng sáng chiếu ánh bạc lãng đãng giữa dòng suối cô đơn. Lòng man mác buồn. Tôi ngữa mặt lên nhìn sao đêm để Thu-Hà không thấy tôi đang khóc.

Tôi không muốn đêm nay, đêm mai và ngay cả những đêm còn lại trong đời nàng phải mang nỗi căm hờn u uẩn vì đã bị đè nén quá lâu. Tôi lái câu chuyện qua hướng khác.

“Thu-Hà! Giữa biển, sông và suối, em thích nơi nào nhất?”

Như quên hết nỗi ưu phiền, nàng chợt nhìn tôi chớp đôi mắt màu nâu hạt dẻ, thong thả trả lời:

“Biển rộng mênh mông, lại hay có những cơn bão biển.

Sông êm ả nhưng em vẫn thích dòng suối cô đơn, hiền hòa và vô tư này!”

Nàng hỏi lại tôi: “Còn anh?”

Tôi thẫn thờ:

“Anh chỉ thích em thôi!”

Nàng nguýt tôi.

“Lãng mạn vừa vừa nhé! Em giận bây giờ! Em không chịu đâu!”

Tôi giả vờ:

“Sao vậy? Biển cũng là em. Tấm lòng em rộng như biển.

Em hiền như sông. Thu-Hà đẹp, thơ ngây như suối. Cho nên anh thích cả biển, cả sông và cả suối nữa.

Nàng nhìn tôi dò xét: “Như vậy từ trước đến giờ anh đã yêu nhiều người rồi phải không?”

Nàng dừng lại một chập rồi nói: “Anh đã yêu nàng Biển, nàng Sông, nàng Suối nào đó, rồi mới yêu em, phải không?”

“Không!” Anh đã nói như vậy, vì tâm hồn em bao gồm cả biển, cả sông và cả suối nữa!”

Thu-Hà nụng nịu: “Em không chịu đâu! Em chỉ thích em là Suối … là Thu-Hà … là người yêu của riêng anh thôi.”

Tôi lặng thinh để nuốt từng lời, từng chữ, từng âm điệu mà Thu-Hà vừa trao cho tôi.

Thoáng chốc tôi hôn Thu-Hà dưới chồm sao rừng chợt sáng…

Niềm vui nào rồi cũng tàn, kỷ niệm nào cũng sẽ cho mình cảm giác ray rức, rạo rực trong lòng.

Tôi đâu có ngờ lần chia tay này, tôi vĩnh viễn mất Thu-Hà.
Đến ngày phải trình diện công trường thủy lợi Đá Bàn, tôi chia tay Thu-Hà với nỗi niềm luyến tiếc.
Tôi trở lại công trường trước 6 giờ sáng, ngày thứ 15, và cũng như mọi người, tôi được phát một giấy ‘Hoàn thành Xuất sắc Nghĩa vụ Lao động Xã hội Chủ nghĩa’ với giá 240 đồng tiền Hồ và được xe tải chở về địa phương.
Thu-Hà! Em hãy can đảm lên, vì đã lỡ mất nhau trong cảnh đời lận đận, thì mình phải đến với nhau trong những lần mộng du, cho trọn kiếp đời này em nhé.
Anh hẹn em, một sáng bình minh nắng gội đầu hè, anh sẽ dìu em đầm mình dưới dòng suối Hứa trong xanh, mà em còn luyến tiếc, quay quắt nhớ thương, vấn vương trong lòng.
Ghi chú: Đọc tiếp ‘Mắt Tím.’

Duy-Xuyên
Tacoma