
Bên Này Biển Muộn
Kết Thơ Họa Tình
Tác giả không là thi hào ôm ấp bầu rượu quý say sưa rao bán vũ
trụ trăng sao trang điểm nét đẹp kiều diễm của hằng nga. Tác giả cũng
không là thi sĩ lạc bước vào thung lũng tình yêu mãi mơ duyên tình thơ mộng đắm
đuối quên cả lối về. Thi phong của tác giả man mác phảng phất vóc dáng tao
nhân thong thả chuyển tâm ươm tơ từ kết sợi ngữ trên ghe thi thơ để đưa đón
hương sắc tình tự nhân hậu trên dòng sông văn chương đa dạng. Ấn hiện đó
đây sâu đậm được gởi gấm trong hồn thơ là hình ảnh thanh nhã của vị khách lữ
hành trầm tĩnh trên lối sống phất phơ cát bụi trần ai để ưu ái đi tìm tình tự
cuộc đời.
* * *
Thơ có nhiều thể loại
từ phép Đường luật, song thất lục bát đến phá luật, thể tự do nhưng thơ hay tùy
thuộc hoàn toàn vào ý tứ và phong
cách kết từ cấu tạo âm hưởng. Thơ
càng cô động đòi hỏi ý tứ càng đặc
sắc. Ý tứ hay thì người đọc
có thể bỏ qua sai cách thể loại nhưng thơ họa đúng phép mà khiếm khuyết
ý tứ diễn đạt hài hòa thì khó đưa
đẩy người đọc vào thế giới tình tự của thi nhân. Có nhà bình luận
thơ gọp chung ý tứ thành tình cảm
chính và gọi cách chọn từ diễn đạt là phong cách. Có nhà bình luận thi ca
phân chia rõ ràng giữa ý và khái
niệm “tứ thơ” để phân tích
“cấu tứ” hay
“siêu cấu tứ,” v.v. Tôi nhận thấy
thả hồn thưởng thức thi cú nghiền
ngẫm ý tứ
gần gũi với sự cảm khái
thanh nhã hơn.
Ý tứ là linh hồn huyền
diệu của thơ, thi cú (câu thơ) là
chiếc thuyền kết từ họa ngữ đưa thi ý
lơ lửng trên dòng sông văn chương đa dạng đến bến tâm hồn của độc giả tạo ra các
rung động âm giai tuyệt diệu. Sáng tác là nổ lực đặc biệt riêng rẽ của tao
nhân; có vị chăm chú kỷ lưỡng đến vần, điệu, luật, từng dấu chấm dấu phẩy
nhưng có vị chỉ thả tâm theo tình tự riêng biệt một cách tự do vô bờ bến cho nên
có thể lạc bước ra ngoài khung lồng quy luật thể loại. Dó đó thưởng
lãm thơ theo thiển ý của tôi là cảm thông lĩnh hội
thi ý đặc sắc của tác giả và chính
lối chọn từ kết ngữ cầu kỳ hay thanh thoát thu hút độc giả vào khu vườn tình cảm
dạt dào của tao nhân.
Thưởng thức âm giai
thi thơ hình như tùy thuộc vào sự rung động đáy tim, cảm khái tâm tư hay đồng
thanh hợp ý của độc giả vốn bị chi phối sâu đậm bởi hoàn cảnh cuộc sống cũng như
quá khứ kinh nghiệm đặc sắc. Cá nhân tôi chỉ thích đọc thơ khi cảm thấy
hoàn toàn thanh thản để có thể tận hưởng được trọn vị ngọt ngào hay chất cay
đắng quấn luyến giữa các vần thơ nhằm tránh phụ lòng gởi gắm
thi ý của tác giả trong tơ từ sợi
chữ đan dệt nên lưới thi thư gợt vớt sắc hương cuộc đời bởi vì nếu không đón đạt
diễm ý của tác giả thì khó cảm nhận ẩn tình được ưu ái gởi gấm gói ghém trong
các vần thơ.
Nếu tâm tình của thi
nhân bị bó buộc trong thế giới vô minh thì độc giả khó đến gần được ẩn dụ tình
tự của các vần thơ. Hạnh phúc là những người may mắn hiểu được
thi ý khi thưởng lãm những làn thơ
tao nhã. Gần đây tôi có được một khoảng thời gian và khung cảnh
thanh tịnh để lẳng lặng lắng nghe hơi thở của thơ hòa cùng âm giai diễm điệu
chứa đựng trong thi tập Bên Này Biển
Muộn với hy vọng len lỏi cảm nhận trọn vẹn tâm tình được tác giả gởi gấm
trong tơ từ sợi
ngữ.
Tác giả
Bên Này Biển Muộn không là thi hào
ôm ấp bầu rượu quý say sưa rao bán vũ trụ trăng sao trang điểm nét đẹp kiều diễm
của hằng nga. Tác giả cũng không là thi sĩ lạc bước vào thung lũng tình
yêu mãi mơ duyên tình thơ mộng đắm đuối quên cả lối về.
Thi
phong của tác giả man mác phảng phất vóc dáng tao nhân thong thả chuyển tâm ươm
tơ từ kết sợi ngữ trên ghe thi thơ để đưa đón hương sắc tình tự nhân hậu trên
dòng sông văn chương đa dạng.
Dòng thơ của tác giả
đã được rất nhiều nhà bình phẩm nghiêm luận cho nên tôi tuyệt đối không dám múa
rìu qua mắt thợ để đưa ra ý kiến riêng tư. Song song, tôi cũng chưa bao
giờ bàn luận về thơ vì như Bùi Giáng suy nghĩ:
“Thơ là cái gì không thể
bàn tới, không thể dịch, diễn gì được.
Người ta có
thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ,
người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn
thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác.
Thế có nghĩa là:
muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác. Người
xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chứ
không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời nay trái lại, họ buộc phải
luận thơ có mạch lạc luân lý, không được “bốc đồng” vịnh lăng nhăng.”
Là một độc giả tầm
thường thưỡng lãm Bên Này Biển Muộn,
tôi không dám bình luận mà chỉ mạo
muội cất bước đi tìm chân dung tâm
tình ẩn dụ đó đây trong phong thái ươm tơ
từ kết sợi
ngữ minh họa nét đẹp tuyệt vời của
tình tự thanh nhã trên dòng sông văn chương cũng như giây khắc xót xa của bụi
đời trần ai.
Tác giả
Bên Này Biển Muộn là tao nhân hài
hòa biết yêu và
đã yêu. Biết yêu và đã yêu?
Chỉ riêng những tình nhân may mắn đắm đuối với sự phập phòng bất trị của con tim
- đôi khi đóng băng buốt giá, đôi khi
cuồng nhiệt nóng bỏng - mới tận hưởng được diễm phúc thăng trầm khó tả của
tình yêu đôi lứa. Trên đường đời vạn nẻo trần ai, người may mắn
biết yêu và
đã yêu tự hiểu rằng
Yêu là chết một nửa con tim vì
mong chờ, vì khẩn cầu, vì chưa được đáp lời, vì trắc trở, vì chưa hợp cẩn, vì
rơi lệ ly tán, v.v.... v.v. và vân vân bất tận. Và có lẽ chỉ
biết yêu và
đã yêu mới cảm nhận được như tác
giả là “Tình yêu em: tuổi dại khờ,
Cháy rừng dục vọng, cạn bờ đam mê” (Rừng, Sông Em).
“Em là một nửa trong ta
Nên suốt đời ta không thể
Xa em chỉ
một ngày
Xa em đời ta dâu bể”
(Ta Đi Tìm Em)
Có lẽ đúng khi người
ta nói tình yêu lứa đôi được ông tơ bà nguyệt
xe duyên bằng những sợi chỉ óng
ánh đầy hấp lực đam mê sẳn từ kiếp nào ở mãi tận chân trời cao xa vời vợi ngoài
tầm nhìn của thế giới nhân loại, ngoài khả năng hiểu biết của loài người, ngoài
sự suy đoán hay tính toán của thế gian.
“Hỡi im lặng có cái gì đang đến
Từ kiếp nào, xa xôi lắm, đâu đây?
Trái
tim tôi tiếng hát của tình say
Linh
hồn tôi tiếng nói của tù đày”
(Từ Kiếp
Nào Yêu Em)
Yêu là sự bất ngờ khó
diễn tả đưa dẫn trói buộc siết chặt con tim nhưng cũng phảng phất ý muốn tự
nguyện của tâm tư điên rồ cố ý xô
đẩy sự ngây thơ ngày nào rơi xuống vực thẳm của sự đam mê tình ái. Con tim
thảnh thơi tự do nhiều năm lại bị tù đày mãi mãi bởi song sắt tình yêu say đắm,
đôi khi ngọt ngào tuyệt diệu nhưng đôi khi cũng đầy chua chát đắng cay.
Chỉ có thử thách thời gian vạn niên
vạn nhật mới chứng minh được sự
tinh khiết cao cả và nhịp độ sâu
đậm của tình yêu chân thật.
“Bên này biển Đông sầu
nhớ thương mùa Hạ cũ
biển xanh thẳm
một màu
gọi mãi người yêu dấu..”
(Bên Này Biển Đông Sầu)
Ưu tư lao đao chờ đợi
đếm giây tính phút cộng tháng
nhân năm mới thật sự cảm nhận rõ
nét được sức cuốn hút cuồn cuộn thiết tha và mãnh liệt của tình yêu da diết ẩn
hiện mập mờ trong tâm tư bập bùng lên xuống với thủy triều cao thấp theo nhịp
đập của con tim buốt giá lạc loài ở tận mãi góc trời xa xôi nào đó.
“Hai mươi năm rồi hai mươi năm
Ta mõi mòn tìm em âm thầm
Ta oán hờn
tìm em tản lạc
Chân trời, góc biển,
sóng âm âm...”
(Hai Mươi Năm Tình Sầu)
Tác giả
Bên Này Biển Muộn là một lữ khách
trên con đường tình ái với hành lý cảm xúc dạt dào
“Trăm lá thư màu tím, Viết bằng lời
yêu thương, Em gởi ra sa trường, Ép nhành lan tim tím” (Tình Yêu Màu Tím).
Chính hành lý thân thương này đã giúp vơi đi gánh nặng của đời trai
“lấy thân làm bia đỡ đạn, ngược suôi
sinh tử bao lần” (Gã Khờ).
Cuộc đời thay đổi tàn
khốc với cơn lốc khói lửa tháng Tư đốt cháy tình tự lãng mạn, thơ mộng, dễ
thương của xã hội miền Nam. Trong cơn lốc đổi đời, nạn nhân thời cuộc hình
như đã vơi hết lệ sầu để khóc cho nước, cho nhà, cho thân nhân và cho số phận
mình cho nên có người cứ mãi sửng sờ nhìn đời, nhìn trời và tự hỏi:
“Ngày ấy, anh và tôi
Nơi
khu rừng kỷ niệm
Bên dòng sông êm đềm
Anh vẫn thường đêm đếm..
Vì sao nào
đổi ngôi?
..
Vì sao nào đổi ngôi?
Ở cuối đời băng
giá..”
(Người Thương Binh, Dòng Sông
và Khu Rừng)
“Ba mươi năm khói lửa loang mờ
Cửa nát nhà tan lệ đá khô
Sống sót còn
người lê cuối phố
Đau thương có kẻ
nghẹn bên mồ”
(Mặt Trời Đen)
Phủ trùm lên đất nước
là một màu máu tanh rợn của loài ác quỷ rừng rú đánh mất nhân tính để trở thành
mũi xung kích phục vụ chủ nghĩa ngoại lai bằng cách thiêu đốt sức sống cùng kiệt
chập chờn của dân tộc. “Hai mươi
năm rồi hai mươi năm”. Tương tự như những người con anh dũng của dân
tộc trong bối cảnh lịch sử cận đại, cuộc đời của tác giả là những chuỗi dài gian
nan từ chinh chiến đến tù đày rồi lưu vong.
“Ôi! Tôi còn gì nữa
Ngoài
vết thương muộn phiền
Sau mười năm
binh lửa
Và nghìn đêm bàng hoàng”
(Vết Thương Muộn Phiền)
“Khi tỉnh giấc ác mơ
mồ
hôi tôi lạnh toát
thần trí bỗng thẫn
thờ
tôi thầm cầu Phật, Chúa
cứu giúp người xa cơ”
(Lời Cầu Thầm
Trong Trại)
Người lính VNCH oai
dũng ngày nào phải lê lết kiếp sống tù đày trong những trại tập trung nơi rừng
thiên nước độc. Họ trở thành nô lệ tân thời của đỉnh cao trí tuệ Mác-xít
thường trực đối diện chết chóc, đói khổ, bệnh tật, buốt rét, kiệt sức, v.v.
Nguời chết uất ức, kẻ kiệt lực khi may mắn sống sót trở về nếu không bị tàn phế
thể xác thì cũng bị tổn thương tinh thần và đôi lúc lại gặp cảnh ly tán đau
lòng.
“Mai về, em cũng đã ra đi
Tìm mãi một đời vẫn cách ly
Trái tim
hoang phế từ chia biệt
Tôi và tôi thế
kỷ ai bi.”
(Mai Về)
“Mười hai năm lưu lạc
Tôi
trở về phố xưa
Nha Trang buồn heo hắt
Hàng cây đứng bơ phờ
..
Em ra đi phương nào?
Mái hiên xưa đổi
chủ
Con đường cũ thay tên
Nỗi sầu tôi cô lữ”
(Trở Về Phố Xưa)
Đau khổ nhất có lẽ là
những nạn nhân tàn tật của chiến tranh phải lê lết kiếp sống phế nhân để rồi âm
thầm ra đi trong lặng lẽ hiếm người thương kẻ nhớ. Họ đã cống hiến không
những cả cuộc đời trai trẻ cho quê hương mà còn can đảm đem một phần thể xác tác
tạo vòng đai trường thành bảo vệ sự tự do vô giá của khối người Việt quốc gia.
Qua cơn bảo máu họ gắng gượng tồn tại bên lề xã hội bị xiềng xích bởi loài quỷ
đỏ và bị lãng quên như những gánh nặng tàn tạ cuối đời.
“Tôi lại về xóm nổi
Gặp
người thương binh sầu
Đầu bù xù, tóc
rối
Đứng dưới trời mưa mau
..
Có về nơi cuối bãi
Nghe tiếng đàn oán than
Hăm lăm năm
dầu dãi
Sầu u uất chưa tan.”
(Đàn Oán)
“Đêm nay trời rét căm căm
Bấc thổi đằng đằng
Mặt trời yên ngủ
Nghĩa trang căng huyền
Nhưng người
thương binh tật nguyền
Vẫn thao thức
với muôn vì sao lấp lánh”
(Anh Vẫn Là
Một Con Người)
“Người thương binh đứt lìa hơi thở
Kèn ễnh ương xô động mái lầu
Truy điệu
cây nghiêng mình tiễn biệt
Cử tang mưa
gạt lệ u sầu”
(Ôi! Người Thương Binh)
Tác giả đã hạ bút
trang trọng đơm kết tình người, tình chiến hữu, tình non nước thành
vòng hoa chiêu hồn với ánh sáng
diệu kỳ của vũ trụ tình thương long lanh
“Lời ai than khóc trong mưa gió, Dạ
bạc sầu đông đứng héo khô” nghe xót xa sâu đậm cõi lòng, đau thấu suốt tận
đáy tâm tư, xoáy nghiến sự xót xa của vạn vạn con tim biết thao thức với tình
người lắng đọng suốt chặn đường đời trần ai dài thăm thẳm.
“Mang mang thiên địa hồn thi sử
Mặc mặc trường giang cọc nhọc trơ
Triệu triệu vong linh còn vất vưởng
Nương dâu hạ bạn phải đi về
Ngàn vạn
hồn oan không trở lại
Cô phòng ngọn
nến cháy vu vơ
Lời ai than khóc trong
mưa gió
Dạ bạc sầu đông đứng héo khô”
(Hồn Oán)
Khi xã hội mới của
loài ác quỷ rừng rú đánh mất nhân tính để chỉ biết nhìn mọi người với cặp mắt cú
vọ thù hằn ý thức hệ thì chọn lựa
ly hương trở thành nhu cầu thiết thực của nạn nhân. Bị bắt buộc xa quê nhà là
niềm bất hạnh, nhưng bị đàn áp xua đuổi ra khỏi đất nước bởi loài ác quỷ rừng rú
là một thảm trạng khó có thể tưởng tượng nổi. Sự nhất quyết ra đi của
người Việt quốc gia bất chấp cái chết chứng minh tinh thần phản kháng không chỉ
chính sách ý thức hệ mà còn luôn
cả sự dã man của guồng máy bạo lực mà loài ác quỷ sử dụng để kềm chế nhân dân.
“Tự do lẽ sống người di tản, Nhân bản
niềm tin kẻ lữ hành” (Như Đóa Đỗ An). May mắn là những người vượt
thoát thành công và đã đến được bến bờ tự do.
“Đi đâu? tận nửa vòng trái đất
Lang thang như những kẻ không nhà
Con
ốc mượn hồn ai nhập xác
Sóng đời gõ
mãi những âm xa.”
(Lâu Rồi Tôi Chưa
Về)
Ra đi là đánh mất cái
gì đó bàn bạt sâu kín trong tâm hồn thật khó diễn tả. Ít hay nhiều thì
những người ly hương cũng còn lưu giữ vài kỷ niệm riêng tư mà khi nhớ đến nếu
không rơi lệ trong tâm tư thì cũng chạnh lòng xót xa khoảnh khắc. “Ngày
đi, nhà, chái mưa xô dạt, Nay còn xiêu dột ở trong hồn” (Mùa Xuân Lưu Lạc).
“Người xa tôi xa một biển Đông
Mười năm u tịch hải triều dâng
Bạc đầu
lượng sóng vô âm tín
Bờ bến nào đâu
giữa cõi trần?”
(Ôi! Thuyền Nhân)
“Chỉ nhớ thương thôi đã xế đời
Chim về biển bắc, núi mù khơi
Trập
trùng song vỗ niềm cô tịch
U uất canh
tàn lá rụng rơi”
(Hiu Hắt Tình Quê)
Bên Này Biển Muộn hài hòa đan
tứ vào
ý để thêu dệt những ấn tượng đặc
sắc chứa đựng hương vị đậm đà của tình yêu, tình bạn, tình chiến hữu, tình
người, tình nước non... Ấn hiện đó
đây sâu đậm được gởi gấm trong hồn thơ là hình ảnh thanh nhã của vị khách lữ
hành trầm tĩnh trên lối sống phất phơ cát bụi trần ai để ưu ái đi tìm tình tự
cuộc đời.
Tác giả của thi tập
Bên Này Biển Muộn đượm tình người
là nhà thơ Vinh Hồ Hồ Văn Thinh,
một thi nhân hiền hậu từng sáng lập nhóm thơ Tiếng Vọng vào năm 1967 ở Ninh Hòa,
sau này khi đi tù cải tạo về lại đồng khởi xướng nhóm thơ Bát Tiên vào năm 1987
và 5 năm sau đã cùng bằng hữu xuất bản tập thơ Ngàn Hương trước khi rời quê cha
đất tổ. Nhà thơ Vinh Hồ hiện giờ là đương kim Chủ Tịch vùng Đông Nam Hoa
Kỳ VBVNHN.
Tôi có dịp trà tửu với
anh Vinh Hồ suốt Đại Hội VBVNHN kỳ 10 vì chúng tôi lưu nghỉ cùng khách sạn.
Anh rất hòa nhã lại có nghệ sĩ tính đậm đà cho nên đã cùng với VH Thanh Sơn, VH
Tuyết Nga gởi rất nhiều nụ cười thoải mái đến cho quý văn thi hữu tham dự Đại
Hội 10.
“Vì em tôi vác thập tự đời
Đi giữa mênh mông sa mạc người
Đá chạy
cát bay hồn bão nổi
Mưa cuồng sóng dữ
tình băng trôi
...
Chiến tranh chẳng giết lòng chung thủy
Tù ngục nào ngăn tiếng sáo diều
Hy
vọng vẫn còn trong tuyệt vọng
Và tình
em rực sáng tim yêu.”
(Ôi! Thơ)
Các ý tứ dạt dào chứa
đựng trong thi tập Bên Này Biển Muộn
đưa độc giả lần theo dấu chân của tao nhân qua lối mòn lữ hành quanh co đi tìm
tình tự của cuộc đời. May mắn vô vàn là tác giả
Bên Này Biển Muộn đã tìm ra được
sự kỳ diệu đặc sắc của tình tự cuộc đời hài hòa trong tình yêu đậm đà dạt dào
của nàng thơ khả ái.
Thật hạnh phúc cho thi nhân Vinh Hồ được
nàng thơ kiều diễm dệt lụa
tình ngữ, đan tơ
ái từ khích lệ
thi tâm thả lưới cảm xúc nhẹ nhàng
gợt vớt hương vị ngọt ngào của cuộc đời để minh họa đặc sắc sự kỳ diệu tuyệt vời
trong bức tranh tình tự thanh nhã.
Thật hạnh phúc cho độc giả được
thưởng thức những vần thơ trân trọng tình yêu, tình bạn, tình chiến hữu, tình
người, tình nước non của một tao nhân thong thả kết thơ họa tình trên dòng sông
văn chương đa dạng dâng hạ nhẹ nhàn cao thấp theo từng nhịp đập kỳ lạ của cuộc
đời.
Đa tạ thi sĩ Vinh Hồ
đã
“ươm tơ từ dệt sợi ngữ đan kết lưới thi thơ vớt hương sắc, họa tình
đời.”
Vịnh Thanh
Mùa Hoa Anh Đào 2015
Tokyo, Nhật Bản