Khỉ trong tục ngữ, ca dao và thi ca.
(Sưu tầm của
Vinh Hồ)

Khỉ
vớt trăng, (Nguồn: từ NET)
Tranh
của thiền sư Nhật
Bản Hakuin
Ekaku (1686-1769).
Năm Thân là cầm tinh con khỉ, kể cả khỉ
đột, đười ươi, vượn, tinh
tinh... Trong mười hai con giáp, khỉ tượng
trưng cho sự nghịch ngợm, láu lĩnh, tinh khôn...
1. Khỉ trong tục ngữ, ca dao:
Một số từ, thành
ngữ, tục ngữ có dính dáng đến khỉ như:
Khỉ gió, khỉ
khô, khỉ mốc.
Đồ khỉ.
Cầu khỉ: phổ biến ở miệt
vườn đựơc làm bằng 1 cây tre bắt ngang
qua mương, qua kênh rạch cho người qua lại.
Cứ mỗi bước chân qua là cầu lắt lẻo
đung đưa rất khó đi, chỉ có khỉ, chúa leo
trèo mới đi được dễ dàng, vì thế nên người
ta gọi là cầu khỉ.
Bốn câu ca dao sau mô tả
đúng bản tính nghịch ngợm của khỉ:
Tuổi Thân con khỉ lao chao
Nhảy qua nhảy lại té ào xuống mương.
Trời sinh con khỉ ở lùm.
Chuyền qua chuyền
lại rớt ùm xuống sông.
Khỉ ho cò gáy:
chỉ nơi hoang dã không có bóng người.
Giết gà dọa khỉ.
Làm trò khỉ:
làm trò hề lố bịch vô duyên.
Nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà
Khỉ lại hoàn khỉ, mèo lại hoàn mèo.
Chuột chù chê khỉ rằng
hôi
Khỉ lại trả lời:
cả họ mày thơm?
Hứa hươu hứa
vượn: hươu vượn ở núi nhanh nhẹn
thấy đó mất đó, nên “hứa hươu hứa
vượn” là hứa suông, hứa cho qua chuyện,
không có gì chắc
chắn.
Tránh khỉ bị hầu già: (hầu là khỉ )
tương tự như câu “tránh vỏ dưa, gặp
vỏ dừa”.
Má ơi, đừng gả con
xa
Chim kêu, vượn hú biết
nhà má đâu?: Nỗi
lòng cô gái hiếu thảo không muốn cha mẹ gả con
xa, đồng thời có ý khuyên chúng ta không nên ép duyên, mà
hãy để cho con cái được tự do
lựa chọn hôn nhân dựa trên tình yêu.
Mồ hôi nhễ nhại
Thiếp thương chồng
thiếp phải chạy theo
Con ơi, mẹ dắt lên
đèo
Chim kêu bên nọ, vượn
trèo bên kia.
Nói lên tình yêu chung thủy hi sinh vì chồng vì con
của người phụ nữ dù phải đối
diện với bao nghịch cảnh khó khăn, sầu não.
Mặt nhăn như khỉ.
Nhăn nhó như khỉ ăn
gừng.
Mặt nhăn như khỉ
ăn ớt.
Người ta tuổi
Ngọ, tuổi Mùi
Em đây luống những ngậm ngùi tuổi Thân.
Tâm viên ý mã: Tâm ý tán loạn chạy như
vượn như mã, không tập trung.
Nuôi khỉ dòm nhà: khỉ ưa bắt
chước, phá phách, ăn vụng, nên nuôi khỉ dòm
chừng nhà chẳng khác nào "nuôi ong tay áo, "giao
trứng cho ác", có ngày sẽ bị nó đốt nhà.
Rầu rĩ như
khỉ mất con: khỉ nhất là vượn là động
vật linh trưởng hao hao giống người, khi
mất con cũng kêu gào thảm thiết như
người. Vượn mẹ nuôi con tới 5, 7 năm
mới xa con, lâu nhất trong loài động vật.
Rung cây nhát khỉ: khỉ sợ người,
gặp là nhảy thót lên cây cao, cho nên dù có rung cây cũng
không làm gì được khỉ.
Chim kêu vượn hú: chỉ nơi thâm sơn cùng
cốc không 1 bóng người.
Vượn lìa cây có ngày
vượn rũ,
Anh xa nàng mặt ủ mày chau.
Vượn sống, ăn, ngủ trên cây, bắt
phải lìa cây sẽ chết rũ. Tình yêu cũng vậy,
buộc phải lìa nhau "quân tại tương giang
đầu, thiếp tại tương giang vĩ" thì sẽ "muôn năm sầu thảm/ Nhớ thương còn một nắm
xương thôi/ Thân tàn ma
dại đi rồi/ Rầu
rầu nước mắt, bời bời ruột gan"
(thơ Hàn Mặc Tử).
Khỉ bồng con lên non kiếm trái
Cảm thương nàng phận gái mồ côi.
Vượn thương con như người.
Chuyện kể có người thợ săn bắn
vượn mẹ đang lúc cho con bú. Vượn mẹ
bị tên, biết mình không thể sống được
bèn vắt sữa ra cho con uống xong rồi
chết. Người thợ săn mang về nhà,
nhưng vượn con cứ nằm phục bên xác
mẹ kêu gào thảm thiết rồi chết.
Mượn hình ảnh này để tỏ tình với cô gái
mồ côi quá là tuyệt!
2. Khỉ trong thi ca
Thiền Tông Bản Hạnh: Bản in năm 1745, ở phần
phụ ghi như sau:
"Yên Tử sơn Trúc Lâm
đệ tam tổ Huyền Quang tôn giả Vịnh Hoa Yên
Tự phú. (có nghĩa
là: Phú Vịnh Chùa
Hoa Yên của ngài Huyền Quang, tổ thứ ba
Trúc Lâm núi Yên Tử).
Bản Thiền Tông Bản Hạnh này gồm 798
câu lục bát do Hòa thượng Chân Nguyên biên soạn, ông
Hoàng Xuân Hãn phiên âm, thuật lại đời tu hành của
3 vị vua: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân
Tông cùng 2 vị Thiền sư Pháp Loa và Huyền Quang.
Thiền sư Chân Nguyên
(1647-1726): từng trụ trì hai chùa lớn nhất
của hệ phái Trúc Lâm Yên Tử là chùa Quỳnh Lâm và chùa
Long Động.
Thiền
Sư Huyền Quang (1254-1334): thi đỗ Trạng Nguyên làm trong Viện Nội Hàn, tiếp sứ Bắc triều... Lúc 51 tuổi treo ấn từ quan theo Vua Trần Nhân Tông đi tu, là tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử. Người ta xem Sư cùng Trúc Lâm
Đầu Đà Trần Nhân Tông và Pháp
Loa ngang hàng với 6 vị
tổ của Thiền
tông Trung
Hoa và 28 vị tổ
của Thiền Ấn Độ. Lê Quý Đôn khen
thơ Sư “ý tinh tế, cao siêu, lời bay
bướm, phóng khoáng”. Tác phẩm
của Sư gồm có:
1. Ngọc tiên
tập
2.
3. Công văn tập
4. Phổ huệ
ngữ lục
Vịnh Hoa
Yên Tự Phú: (Phú
vịnh Chùa Hoa Yên) viết theo thể phú gồm 98 vế trong đó
có nhắc đến vượn 2 lần, xin trích 3
đoạn như sau:
Buông niềm trần tục
Náu tới Vân Yên.
Chim thuỵ dõi tiếng ca chim
thụy. (thụy là
lành)
Gió tiên đua đòi bước
thần tiên.
Bầu đủng đỉnh dang
hoà thế giới
Hài thong thả dạo khắp
sơn xuyên.
......
Ngự sử mai hai hàng chầu rạp,
Trượng phu tùng mấy
chạnh phò quanh.
Phỉ thuý sắp hai hàng loan
phượng, (cây phỉ thúy)
Tử vi bày liệt vị công
khanh. (bụi tử vi)
Chim óc bạn cắn hoa nâng
cúng (óc là gọi)
Vượn bồng con kề
cửa nghe kinh.
........
Đua khoái lạc, chân bước lăm
chăm;
Nhuốm phồn hoa, đầu
đà bạc tỷ. (bạc tỷ: bạc chút ít)
Chẳng những vượn
hạc thốt thề,
Lại phải cỏ hoa
cười thỉ.
Thi sĩ
Nguyễn Trung Ngạn (1289–1370): từ nhỏ nổi
tiếng thần đồng, năm 15 tuổi đỗ
hoàng giáp. Đỗ tiến sĩ cùng khoa với Mạc
Ðĩnh Chi. Năm 24 tuổi làm Giám quân, năm 28 tuổi
đi sứ nhà Nguyên. Tính cương trực, tài kim văn
võ, có công trong việc xây dựng, bảo vệ đất
nước, làm quan qua 5 đời vua triều Trần. Ông
có 5 tác phẩm:
-Giới Hiên thi tập
-Hoàng triều đại điển
-Hình luật thư
-Thanh chinh Đà Giang thực lục
Trong bài thơ "Yên Tử sơn Long Động tự" có tả tiếng vượn kêu
trăng (viên minh nguyệt) ai oán buồn thảm sau đây:
Chùa
Long Động ở núi Yên Tử
Trèo lên bậc
đá lạnh dây đan,
Vừa đến tùng
môn thấy nhẹ nhàng,
Một cụm lâu đài lánh
thế tục,
Bốn mùa hoa điểu khác nhân
gian.
Im lìm tựa
tháp sư nhìn núi,
Oán
hận bên rừng vượn gọi trăng.
Thi
hào Nguyễn Trãi (1374-1442):
Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét "Ông tuổi trẻ
đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách
gia, binh thư thao lược đều am hiểu
cả".
Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh làm quan triều
Hồ. Sau có 10 năm phiêu dạt (1407-1417) trong
văn thơ ông có nói nhiều đến "thập niên phiêu chuyển"
(mười năm phiêu dạt) lênh đênh góc biển chân
trời. Có người đoán ông
đã từng sang Tàu trong thời kỳ này dựa
trên một số thơ của ông có nhắc đến
nhiều địa danh ở Trung Hoa
Thơ văn Nguyễn
Trãi gồm chữ
Hán lẫn Nôm thuộc các
lãnh vực văn học, lịch sử, địa lý,
luật pháp, lễ nghi... song đã bị thất lạc
sau vụ án Lệ Chi Viên. Các tác phẩm còn lại phần
lớn được sưu tập trong bộ Ức Trai Thi Tập của
Dương Bá Cung khắc in năm 1868.
Ức Trai Thi
Tập
gồm 105 bài thơ chữ Hán. Quốc
Âm Thi Tập gồm 254 bài chữ Nôm. Ông được xem
như nhà thơ đầu tiên làm thơ chữ Nôm, cũng
là người có số lượng thơ luật chữ Nôm nhiều nhất trong
thơ cổ điển VN.
Nguyễn Trãi có thời gian từ quan về
ở ẩn tại núi Côn Sơn làm bạn với
vượn hạc.
Vượn hạc tượng trưng cho
người quân tử được nhắc
đến nhiều trong thơ chữ Nôm của ông:
Chụm tự
nhiên một thảo am
Dầu lòng đi Bắc liễn
về Nam
Rừng thiền định, hùm
nằm trực
Trái thì trai, vượn nhọc
đem
Núi láng giềng, chim bầu
bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh
tam
Tào Khê rửa ngàn tầm
suối
Sạch chẳng còn một chút
phàm.
Đoản trạo hệ tà
dương,
Thông thông yết thượng phương.
Vân quy Thiền sáp lãnh,
Hoa lạc giản lưu hương.
Nhật mộ viên thanh
cấp,
Sơn không trúc ảnh trường.
Cá trung chân hữu ý,
Dục ngữ hốt hoàn vương (vong).
Nguyễn Trãi (Trích Ức Trai thi tập)
Chùa
Tiên Du
Chèo ngắn buộc hoàng hôn,
Lễ chùa
vội bước lên.
Mây về giường sãi
lạnh,
Hoa rụng suối hương
thơm.
Núi biếc bóng trúc
ngã,
Trời chiều vượn hú
dồn.
Bên trong dường có ý,
Muốn nói rồi lại quên.
Nữ sĩ Ngô Chi Lan: tự Quỳnh
Hương, không rõ năm sinh năm mất, là chị
em họ với vua Lê Thánh Tông, một trong những nhà thơ nữ
đầu tiên trong văn học sử VN, được
Nguyễn Trãi nhận làm con nuôi cải thành họ Nguyễn tên là Hạ Huệ. Năm 1442,
cha mẹ nuôi bị vu tội giết vua bị án tử
hình, Bà liền cải dạng lấy lại tên thật
trốn ở nhiều nơi cho đến khi thái tử Lê
Tư Thành lên nối ngôi vua, bà mới dám trở về. Bà
nổi tiếng đẹp người, đẹp
nết, giỏi thi ca, thông hiểu âm nhạc,
viết chữ đẹp, nên được Vua ban
hiệu là Kim Hoa nữ học sĩ cho dự
nhiều cuộc xướng họa thơ văn,
đảm đương việc dạy lễ nghi,
văn chương cho các cung nữ.
Ngô Chi Lan có một
tập thơ duy nhất là Mai Trang Tập (Tập thơ vườn mai)
nhưng đã thất truyền, hiện chỉ còn trên
dưới mười bài.
Nhân câu chuyện Tô Vũ bị
lưu đày chăn dê nơi tuyết giá chỉ còn biết làm bạn với
cỏ cây cầm thú, và đã kết bạn tình với
một nàng vượn-người (hầu nhân),
sống với nhau như vợ chồng và đã có với nhau một đứa con. Sau 19
năm, Tô Vũ chia tay người vợ
vượn-người trở về Hán.
Trước cảnh chia ly
chồng người & vợ vượn đầy
cảm động này, nữ sĩ Ngô Chi Lan có làm 1 bài
thơ tên "Tô Vũ Từ Hồ Phụ"
(Tô Vũ biệt
vợ Hồ) xin trích 8 câu:
Ngập ngừng bưng chén ly bôi,
Nghĩ mình muôn dặm
thương người năm canh.
Nhớ duyên kỳ
ngộ ba sinh,
Trăm năm xin
gửi chút tình lại đây.
......
Tình sum họp chiếu chăn càng mãi mãi
Hay là cá nước chẳng
ưa màu phấn đại
Ðem duyên em buộc
lại chàng Tô
Xui nên kẻ Hán
người Hồ.
Ngô Chi Lan (trích Tô Vũ Từ
Hồ Phụ)
Thi hào Nguyễn
Bỉnh Khiêm (1491-1585): Năm 45 tuổi Ông mới chịu
đi thi và đỗ Trạng nguyên, làm quan được phong
tước Trình Tuyền Hầu rồi
thăng Trình Quốc Công mà
dân gian quen gọi là Trạng
Trình.
Khi Ấu Chúa tin dùng nịnh thần,
triều chính nhiễu nhương chia bè kết phái,
Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ xin trị tội 18
lộng thần, nhưng không được chấp
thuận, năm 1542 ông xin về quê trí sĩ (sau 8 năm làm
quan) dựng am Bạch Vân, lấy hiệu Bạch Vân cư
sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong... mở trường
dạy học cạnh sông Tuyết, được các môn sinh tôn là "Tuyết Giang phu
tử", học trò có
nhiều người hiển đạt như Phùng Khắc Khoan...
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang
chất triết lý, suy tưởng, thời thế...
gồm chữ Hán: Bạch
Vân am thi tập có khoảng 1,000 bài, nay còn lại
khoảng 800 bài. Chữ Nôm: Bạch
Vân quốc ngữ thi tập sáng tác từ khi qui
ẩn hiện còn lại khoảng 180 bài. Ngoài ra, còn
nhiều văn bia (bi
ký), một số khắc vào đá đã được tìm
thấy.
Sấm
ký Nguyễn Bỉnh Khiêm: còn gọi là "Sấm Trạng Trình" là
những lời tiên tri bằng thơ về các biến
cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500
năm (1509-2019).
Bản Sấm ký của Trịnh Văn Thanh, Sài Gòn
1966 có 262 câu, gồm 14 câu "cảm đề" và 248
câu "sấm ký". Hiện có 20 văn bản, trong
đó 7 bản là Hán Nôm và 13 bản là quốc ngữ.
Ngay trong phần đầu của tập Sấm ký có tựa
đề "Trình tiên
sinh quốc ngữ", lần đầu tiên 2
chữ Việt Nam đã được nhắc
đến:
"Việt
Ông còn sử dụng 2 chữ Việt
Trong các bản Sấm ký dịch
ra quốc ngữ thì bản của Sở Cuổng là
sớm nhất in trong Quốc
học tùng thư (Nam Ký xuất bản, Hà Nội,
1930, in tại nhà in Trịnh Văn Bích).
Xin trích 3
đoạn trong bản Sấm ký này có nhắc
đến "Khỉ, Thân, Vượn" như sau:
Khỉ ôm con
ngồi khóc
Gà chuồng
vỡ tổ bay
Chó vẫy đuôi
mừng thánh chúa
Lợn ăn no
ngủ cả ngày.
......
Long vĩ xà
đầu khổ chiến tranh
Can qua xứ xứ khởi đao
binh
Mã đề dương
cước anh hùng tận
Thân dậu niên gian kiến thái
bình.
......
Non đoài
vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn
nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ
bóng
Lợn kia làm quái phải sai
đầu
Chuột nọ lăm le mong
cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh
bước về tầu
Hùm ở trên rừng gầm
mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa
tầu.
Nguyễn
Bỉnh Khiêm
Thi hào Nguyễn
Du (1766–1820): sinh ra trong gia
đình đại quý tộc, năm 10 tuổi mất cha,
13 tuổi mất mẹ, ở cùng anh cả, có lúc làm con
nuôi của một vị quan, từmg đi giang hồ
3 năm ở Trung Hoa. Đỗ tam trường năm 19 tuổi, nhưng
đời hoạn lộ thăng trầm bởi thời
thế đổi thay. Có 10 năm phiêu bạt (1786-1796).
Học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể
thơ như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật,
thất ngôn luật, ca, hành... ở thể nào cũng có bài
đặc sắc.
Ngoài
4 tác phẩm bằng chữ Nôm, có 3 tác phẩm bằng
chữ Hán trong đó có "Bắc hành tạp lục" gồm
131 bài viết trong chuyến đi sứ sang Tàu. Trong
tập thơ này xin trích 3 bài sau đây có nhắc
đến tiếng vượn kêu buồn:
Y thùy tuyệt cảnh cấu
đình đài,
Phạt tận tùng chi trụy hạc thai.
Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá,
Kim thân tiền dạ khước phi lai.
Ðình vân xứ xứ tăng miên định,
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai.
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp,
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai.
Nguyễn Du (trích
Bắc
hành tạp lục)
Trông
lên miếu Quan Âm
Đình đài ai
dựng ở nơi này,
Chặt hết cành tùng, trứng
hạc bay.
Hang đá năm nào vừa đục phá,
Tượng vàng đêm trước
mất còn đây?
Mây ngừng chốn chốn sư
yên giấc,
Chiều xuống non non vượn
oán ai?
Ðốt nén hương đàn tiêu
tuệ nghiệp,
Quay đầu đã cách vạn trùng
nhai.
Tam
Giang khẩu đường dạ bạc
Tây Việt trùng sơn nhất thủy phân
Lưỡng sơn tương đối thạch lân tuân
Viên đề thụ diểu nhược vô lộ
Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân
Tứ vọng vân sơn nhân độc lão
Ðồng chu Hồ Việt các tương thân
Thập niên dĩ thất hoàn hương lộ
Nả đắc gia hương nhập mộng tần.
Nguyễn Du (trích
Bắc
hành tạp lục)
Tây Việt trùng sơn,
nước xẻ đôi,
Đá chồng... hai ngọn núi chơi vơi.
Vượn kêu cây rậm dường không lối,
Chó sủa rừng sâu biết có người.
Bốn phía núi mây, người độc lão,
Cùng thuyền Hồ Việt, ta thân thôi.
Mười năm quên mất đường về cũ,
Giấc mộng quê xưa cũng rối bời?
Nguyễn Du (trích
Bắc
hành tạp lục)
Trong bài Sơn Đường
dạ bạc (Đêm đậu thuyền ở Sơn
Đường) có
nhắc đến tiếng vượn kêu não lòng:
Ngọ mộng tỉnh lai
vãn,
Tà nhật yểm song phi.
Phong kính duy thuyền tảo,
Sơn cao đắc nguyệt trì.
Ỷ bồng thiên lý vọng,
Hợp nhãn cách niên ty (tư).
Mạc cận thương nhai túc,
Ðề viên triệt dạ bi.
Nguyễn Du
(trích Bắc Hành Tạp Lục)
Vinh Hồ xin tạm dịch:
Ðêm đậu thuyền ở Sơn Ðường
Ngủ trưa, tỉnh dậy
muộn,
Bóng xế dọi song tây.
Gió mạnh, neo thuyền sớm,
Non cao, thấy nguyệt chầy.
Dựa mui, nghìn dặm ngóng,
Chớp mắt, một năm đầy.
Chớ đậu thuyền gần
núi,
Vượn hú đêm buồn lây.
Nguyễn Du (trích Bắc
Hành Tạp Lục)
Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Hồ Tôn
Hiến gạt Kiều khuyên Từ Hải ra hàng, rồi
tráo trở phục binh, Từ Hải vì nghe lời khuyên
của Kiều mà chết
đứng giữa trận
tiền, đã thế Hồ còn bắt Kiều dâng
rượu, đánh đàn: tiếng đàn sầu thảm
đã được ví như "vượn hót ve
ngâm" não nùng ai oán như sau:
Bắt nàng thị yến dưới màn
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu
Một cung gió thảm mưa
sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Hỏi
rằng: "Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm
thay!"
Thưa rằng: Bạc mệnh
khúc này/
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ
Cung cầm lựa những ngày xưa
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây
Nguyễn Du (Đoạn Trường Tân Thanh)
Nhà dột một hai gian, một
thầy, một cô, một chó cái.
Học trò năm bảy
đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa
đười ươi.
Thi sĩ Nguyễn
Công Trứ (1778-1858): nhà nghèo, có chí, làm quan nhiều lần
bị giáng chức. Năm 80 tuổi còn dâng sớ xin
cầm quân đánh quân Pháp xâm lược. Thơ văn
của ông chỉ còn khoảng 150 bài, nhiều nhất là ca trù
và thơ Nôm. Trong
bài thơ "Thành Thăng Long" ở câu cuối có
nhắc đến 2 chữ "vượn hót" như sau:
Thành
Thăng Long
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh
lịch cũng người Tràng An
Hồi thủ khả lân ca vũ địa
Đất Tràng An là cổ đế kinh
Nước non một dải hữu tình
Trời Nam Việt trước gây đồ đế
kỷ
Người thôn ổ dấu phong lưu thành thị
Đất kinh kỳ riêng một áng lâm toàn
Men sườn non tiếng mục véo von
In mặt nước buồm ngư lã chã
Hoa thảo kỷ, kinh xuân đại tạ
Giang sơn do tiếu cổ hưng vương
Đồ thiên nhiên riêng một bức tang thương
Khách du lãm coi chừng thăm hỏi
Đã mấy độ sao dời vật đổi
Nào vương cung đế miếu ở đâu nào
Mỉa mai vượn hót oanh chào!
Nguyễn Công
Trứ
Thi sĩ Nguyễn Khuyến (1835- 1909): tức
Tam Nguyên Yên Đổ làm quan
thanh liêm, chính trực. Sau nước mất vào tay Pháp, Ông cáo quan về ở ẩn, sống
thanh bần, sáng tác thơ ca. Tác phẩm của ông gồm
có: Quế Sơn
thi tập, Yên Đỗ thi tập, Bách Liêu thi
văn tập, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả
đào, văn tế, câu đối truyền miệng.
Quế Sơn Thi Tập gồm khoảng 200 bài
bằng chữ Hán và 100 bài bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau.
Có bài Ông viết bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Nôm,
hoặc viết bằng chữ Nôm rồi tự dịch
sang chữ Hán, cả hai đều điêu luyện.
Trong thơ Nôm vừa trào phúng vừa trữ tình.
Thơ chữ Hán hầu hết là thơ trữ tình.
Trong bài Anh Giả Điếc có 1
câu nhắc đến
khỉ vói ý châm biếm:
"Dạ lí phan viên nhĩ
tự hầu". (Đêm khuya leo trèo thì lanh lẹ như
con khỉ.)
Anh Giả
Điếc
Trong thiên hạ có anh giả
điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ "sáng tai họ, điếc tai
cày",
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Toạ trung đàm tiếu, nhân như mộc
Dạ lí phan viên nhĩ tự hầu.
Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu
thuốc, khi miếng trầu.
Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một
đôi câu;
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à.
Thi sĩ Nguyễn
Đình Chiểu (1822 – 1888):
Lúc 21
tuổi đỗ Tú tài trường thi Gia Định, năm 1847, ra Huế học chờ khoa thi. Năm 1848, tin mẹ mất, Ông bỏ thi,
về
Lục Vân Tiên (gồm 2,082 câu thơ lục
bát) sau thời gian truyền miệng, năm 1864 được
khắc in lần đầu, được các nhà văn
Pháp dịch ra tiếng nước ngoài.
Truyện thơ Nôm
Dương Từ -Hà
Mậu (gồm 3.456 câu) trong đó phần
lớn là thơ lục bát, có xen 33 bài thơ luật Đường và các
thể khác.
Ngư
Tiều vấn đáp nho y diễn ca (Ngư
tiều y thuật vấn đáp) thơ Nôm (gồm 3,642 câu)
phần lớn là thơ lục bát, có xen 21 bài thơ ĐL
và một số bài phú…
Ngoài ra, ông còn
để lại khoảng 37 bài thơ và văn tế.
Trong Lục Văn Tiên có 6 câu
tả cảnh+tả tình đặc sắc, hình ảnh con
vượn được nhắc đến buồn bã
giống như tâm trạng của con người
trước cảnh chia ly:
Thôi thôi em hỡi
Kim Liên
Đẩy xe cho chị qua miền
Hà-Khê
Trải qua dấu thỏ đàng
dê
Chim kêu vượn hú tứ bề
nước non.
Vái trời cho đặng vuông
tròn
Trăm năm cho vẹn lòng son
với chàng.
Nguyễn Đình Chiểu
(trích Lục Văn Tiên)
Thi sĩ Tú
Xương (1870-1907): Nhà thơ trào phúng lấy
vợ năm 16 tuổi, đi thi từ lúc 17 tuổi (1886); cuộc
đời 37 năm bần hàn chỉ gắn liền
với thi cử: thi 8 lần
mới đỗ Tú Tài, và vì không đỗ được Cử Nhân nên ở
nhà ăn lương vợ cho đến mất, nhưng thơ ông đã được xếp
vào bậc "thần
thơ thánh chữ". Cuốn "Tú Xương tác phẩm giai
thoại" xuất bản 1986 đã chọn ra 134 bài cho là của Tú
Xương, trong đó bài "Than sự thi"
nhắc đến khỉ
với ý chửi rũa trách móc như sau:
Than sự thi
Cử nhân cậu
ấm Kỉ
Tú tài con đô Mỹ
Ới thi ơi
là thi!
Ới khỉ
ơi là khỉ!
Tú Xương
Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938): con của học
giả Nguyễn Văn Vĩnh; đỗ tú tài, từng viết
báo Annam Nouveau, Hà Nội Báo, Tinh hoa, Đông Dương Tạp chí,
mất năm 24 tuổi do bệnh thương hàn. Ông có 2 tác phẩm Ngày xưa (1935),
Người học vẽ (1936).
Trong bài thơ "Chùa
Hương" của ông có nhắc đến bầy "khỉ"
dễ thương hiền lành đang ngồi trong cảnh
núi rừng hoang dã khi người đẹp đi qua, xin
trích 2 khổ:
Réo
rắt suối đưa quanh,
Ven
bờ, ngọn núi xanh,
Nhịp
cầu xa nho nhỏ:
Cảnh
đẹp gần như tranh.
Sau núi Oản, Gà,
Xôi,
Bao nhiêu là khỉ ngồi.
Tới núi con Voi phục,
Có đủ cả đầu
đuôi.
Nguyễn Nhược Pháp
Sau khi đậu "cao
đẳng tiểu học" được học
bổng theo ban chuyên khoa để thi tú tài bản xứ thì
"thần Ái tình hiện đến" khiến ông
bỏ học, quay qua viết văn, làm thơ. Sở
trường thơ tượng trưng, có nhiều tứ
thơ, hình ảnh, ngôn từ lạ lẫm, ma quái, hoặc
đài các mê hồn, thường
tìm về thuở sơ khai, siêu tưởng...
Năm 1954, tập thơ Mê Hồn Ca ra
đời. Năm 1955, ông cộng tác với Đài
phát thanh Sài Gòn giữ mục Tao Đàn chuyên về thơ ca
cho đến hết đời. Năm 1961, in tập thơ Đường vào tình sử (được
trao giải thưởng Văn chương về thi ca
năm 1962). Đinh Hùng còn 8 tác phẩm chưa xuất
bản.
Trong thơ ông có nhiều tiếng vượn.
Tiếng vượn sầu áo não, ma quái trong
thơ 7 chữ:
Ta mê tiếng vượn sầu muôn kiếp
Chim núi cầm canh, hoẵng gọi bầy.
Hay:
Rồi những đêm sâu, bỗng hiện về
Vượn lâm tuyền khóc rợn trăng khuya.
Tiếng vượn sầu thê lương
khắc khoải trong thơ 8 chữ:
Trải sông nước vượt qua từng
châu thổ
Ta đến đây nghe vượn núi kêu sầu.
Tiếng vượn sầu hoang liêu tê tái trong thơ
lục bát:
Quạnh hiu
cũng chẳng cô đơn,
Người đi trong bóng
linh hồn rừng sâu .
Mênh mang tiếng
vượn gọi sầu,
Giật mình hoa rụng
trắng màu tóc bay .
Đinh Hùng (trích bài Thủy Mặc I)
Thi sĩ Bùi Giáng (1926-1998): đã xuất
bản trên 50 tác phẩm đủ loại, nổi tiếng
với những câu thơ xuất thần đặc biệt
là lục bát. Thơ ông nặng tính triết
học, tư tưởng, như 1 nhà hiền triết
phiêu bồng giữa thực và mộng. (Hỏi
tên? Rằng biển xanh dâu/ Hỏi quê? Rằng mộng
ban đầu đã xa. (Chớp
Biển, tr. 132)
Năm 1946, Bùi Giáng có 15 năm chăn dê ở vùng
trung du Trung Phước, miền Trung. Ông có bút danh Đười Ươi Thi Sĩ, ca ngợi con người tiền sử
có tâm hồn chất phác đơn sơ, mong tìm
lại con người nguyên thủy trong cõi trời
đất hoang sơ. Hình ảnh "Đười Ươi" xuất hiện đầy thân ái, trân
trọng trong thơ ông:
Đười ươi tại hạ
ra đời
Thời gian rạch xé tô bồi cho
em.
(Bùi Giáng, Xuân ra đi)
Ta về rũ áo đười
ươi
Trút tờ phong nhã cho người
phụ nhau
(Bùi Giáng, Ta về)
Hình ảnh cô Gái Núi luôn ám ảnh
nhà thơ:
Em từ Mọi Nhỏ thanh
tân
Mười hai con mắt thiên
thần mở ra.
(Bùi Giáng, Mười Hai Con
Mắt, tr. 71)
Mọi là Em, Mọi Sơ
Xuân
Ban Sơ núi đỏ chào
mừng non xanh
(Bùi Giáng, Bài Ca Quần
Đảo, tr. 34)
Đi về giũ áo
đười ươi
Đăm chiêu khách địa từ người
tặng ta.
Ta
về rũ áo đười ươi
Trút tờ phong
nhã cho người phụ nhau.
(Bùi
Giáng, Ta Về, tr. 198)
Gọi đười ươi dậy nhe răng ra
cười.
(Bùi
Giáng, Nhe răng u buồn)
Ấy là thơ thuở chưa
điên
Ở trong dấu ngoặc quàng
xiên reo cười
Bây giờ xoang điệu
đười ươi
Điệu hoa lầu các
ngậm ngùi dấn thân
(Bùi
Giáng, Thuở Chưa Điên, tr. 86)
Đi về trong cõi người
ta
Trước là thi sĩ sau là đười
ươi.
(Bùi Giáng, Gấu ôi, trong tập Mùa Thu Trong Thi Ca)
Nguyễn Chí Thiện (1939 - 2012):
Thi sĩ/ ngục sĩ với tổng cộng 27
năm tù. Năm 1979, ông
chạy vào Tòa Ðại Sứ Anh ở Hà Nội trao tập
thơ 400 bài do ông ghi lại bằng trí nhớ, làm khi ở
trong tù. Sau đó được giáo
sư
Bài thơ
"Từ Vượn Lên Người" của ông có nhắc đến hình
ảnh con vượn, xin trích 8 câu sau đây:
Từ vượn lên người
mất mấy triệu năm
Từ người
xuống vượn mất bao năm?
Xin mời thế giới
tới thăm
Những trại tập trung núi rừng sâu thẳm!
Tù nhân ở truồng từng bầy đứng tắm
......
Loài vượn này không nhanh mà rất chậm
Khác vượn thời tiền sử xa xăm
Chúng đói, chúng gầy như những cái tăm
Nguyễn
Chí Thiện, 1967
3.
Kết Luận:
Khỉ hiện diện trong tục ngữ, ca dao và thi
ca VN khá phong phú, mang nhiều ý nghĩa từ chửi mắng, chê trách,
mỉa mai, trào phúng kể cả u buồn, ma quái, thê
lương, đến thân tình, trân trọng, quý mến,
thương yêu, bằng hữu...
Nặng lòng với Khỉ nhất không ai khác hơn
Bùi Giáng vì Ông đã có 15 năm chăn dê trong rừng, đã sống gần với
Khỉ, đã tự đồng hóa mình là Khỉ khi lấy
bút hiệu "Đười Ươi Thi Sĩ" và đã
viết những câu thơ về Khỉ đầy
thương yêu qúy mến như đã trích dẫn ở
trên.
Cảm động
đười ươi cũng sụt sùi.
Để kết thúc bài
này, năm 2000, tôi có làm một bài thơ mang tựa
đề "Đười Ươi Thi Sĩ"
để tưởng nhớ Nhà thơ Bùi Giáng đã mất
2 năm, nay xin ghi ra đây để quý đồng
hương chia sẻ trong ba ngày Tết Bính Thân:
Đười Ươi Thi Sĩ*
Tưởng
nhớ Nhà thơ Bùi Giáng.
Làm thơ
dịch sách xưng Đười Ươi,
Đi
giữa bể dâu khóc lẫn cười.
Nhân-thế văn
minh năm nói sáu,
Vượn-người
chất phác mười là mười.
Nhớ
thuơng gái núi đầu nguồn thẳm,
Chăn
dắt đàn dê đồng cỏ tươi.
Bỏ
phố về thành tâm bấn loạn,
Miên
trường, đại mộng, hồn đôi
mươi.
Vinh Hồ
*Bùi Giáng có bút hiệu là
Đười Ươi Thi Sĩ.
Lão
Tử nói:
"Kiến
tố, bảo phác, thiểu tư, nhi quả dục. (Trích
chương 19 Đạo
Đức Kinh).
Có ghĩa
là: Thấy nguyên sơ, giữ
mộc mạc, giảm suy nghĩ, bớt dục vọng.
Tương tự "Kiến
tố, bảo phác" trong Đạo
Đức Kinh, Thiền học có "minh tâm kiến
tánh" quan niệm đời là vô thường ảo
ảnh, khi mây tan biến thì vầng trăng ló dạng, khi
tư tưởng buông bỏ thì bản lai diện mục
xuất hiện. Bản lai diện mục tức là tự tâm, bản tánh. Khi minh tâm
kiến tánh thì sẽ hốt nhiên giác ngộ thành Phật.
Chữ "Phác" trong Đạo Đức Kinh dùng
để ám chỉ Đạo, cái thể thuần phác lúc
ban đầu, cái trạng thái bản nguyên của tâm
hồn chưa bị luân lí, tập quán, học thuyết,
chủ nghĩa... mà ta gọi chung là văn hóa hay văn minh
làm sai lạc... Bản tính Phác ở đây cũng
đồng nghĩa với tự nhiên.
Nhận thức được cái
bản tính đơn thuần (Tố), và ôm giữ cái
bản tính tự nhiên ấy, đó là mục đích
cuối cùng của người
học Đạo tu Tiên.
Phải chăng Bùi Giáng, thi sĩ cô đơn đi
giữa chợ đời đã bị ảnh hưởng
bởi quan điểm "Kiến
tố, bảo phác" trong Đạo Đức Kinh?
VINH
HỒ