Năm Ngọ
Tản Mạn về Ngựa
Sưu tầm của Vinh Hồ
1.Khái quát về ngựa:
Ngựa thuộc động vật
móng guốc ngón lẻ.
Động vật móng guốc
ngón lẻ phát sinh tại khu vực Bắc
Mỹ. Có khoảng 12 họ trong bộ này, nhưng hiện còn tồn tại chỉ có 3 họ.
Trong bộ này được chia thành 2 phân bộ:
-Ceratomorpha là
các động vật móng guốc ngón lẻ có vài ngón chân, nặng nề, di chuyển chậm, bao
gồm 2 họ là: lợn vòi, tê giác.
Động vật họ Ngựa đầu dài, cổ có
bờm, đuôi dài, gặm cỏ, đôi khi ăn lá, chồi non, chỉ có một móng guốc bằng chất
sừng; thích nghi với địa hình thoáng đãng từ bình
nguyên tới
sa mạc hay
miền núi. Tai linh động, dễ dàng xác định nguồn phát ra âm thanh. Mắt nằm phía
sau đầu nên có góc nhìn lớn. Nhờ giác quan “thứ sáu”, con đực có thể biết tình
trạng kích dục của con cái. Không giống như động
vật nhai lại, ngựa có hệ thống dạ dày phức tạp, bộ răng gần như hoàn
hảo.
Ngựa
có: ngựa bạch,
ngựa ô, đen
pha đỏ tươi là ngựa vang, đen pha đỏ đậm là ngựa hồng, tím đỏ pha đen là ngựa
tía, ngoài ra còn có ngựa
xám, ngựa đỏ, trắng sọc đen là ngựa
vằn.
Ngựa vằn tốc độ 55 km/ giờ, chậm
hơn các loài Ngựa khác, nhưng bền bỉ và có thể chạy đường xa, sống nhiều nhất ở
Phi Châu.
Ngựa sống thành bầy
gồm 1 con đực và 1 đàn cái. Các con đực còn lại tạo thành các bầy nhỏ hơn. Con
cái đầu đàn kiểm soát sự tiếp cận các nguồn thức ăn/nước uống; con đực đầu đàn
kiểm soát các cơ hội giao phối.
Con cái mang thai độ
11 tháng, thường chỉ đẻ 1 con và sinh một. Ngựa
con có khả năng đứng dậy và chạy một thời gian ngắn sau khi sinh. Con mẹ
cho con bú từ 4 tới 13 tháng và sẽ sinh tiếp sau 1, 2 năm.
Tại vùng ôn đới, con cái động
đực theo mùa, từ đầu xuân tới thu; ở vùng nhiệt đới, động đực quanh năm.
Ngựa bắt đầu
được thuần dưỡng vào khoảng 4,000 TCL
Ngựa 4 tuổi
trưởng thành và tiếp tục phát triển cho đến 6 tuổi. Ngày nay ngựa có tuổi thọ từ
25 đến 30 năm.
Loài ngựa
Miniature Horses nhỏ nhất thế giới, cao từ 35 đến 47 cm, sống tập trung ở vùng
núi Nam Carolina (Mỹ), có tuổi thọ trung bình từ 40 đến 50 năm, trong khi đó,
ngựa bình thường có tuổi thọ từ 20 đến 30 năm.
Về cách đi đứng
của con ngựa có nhiều động từ diễn tả như: Đi, bước, rảo, chạy, nhảy, kiệu,
phóng, vút, phi (bay), tế, sải, lao, vọt, phốc, phi nước đại, phi nước kiệu, phi
rạp mình, ngựa lồng...
Ngựa
xuất hiện trong văn hóa Đông-Tây từ lâu. Ở phương Tây, ngựa gắn liền với nhiều
biểu tượng thần thoại như Nhân Mã trong 12 cung Hoàng Đạo. Ở phương Đông, Ngựa
là Ngọ trong 12 con Giáp, nằm trong “Lục súc tranh công”
truyện thơ ngụ ngôn khuyết danh của Việt
Trong thần thoại châu Á, Thiên Lý Mã trông
giống như ngựa trắng có cánh Pegasus trong thần thoại Hy Lạp cổ đại. Bốn con
ngựa của Apocalypse trong thần thoại Kitô giáo là biểu tượng của sự chinh phục,
chiến tranh, nạn đói và cái chết.
Nhân Mã trong thần thoại Hy Lạp nửa thân trên
là người, nửa thân dưới là ngựa. Trong thần thoại Bắc Âu: Kelpie là quái vật tới
từ các sông hồ ở
3.Ngựa trong nghệ thuật:
Có nhiều nhà điêu
khắc, họa sĩ đã tạc tượng, vẽ tranh ngựa trên sách báo, đền đài, lăng tẩm. Ở các
quảng trường, công viên, nhiều nơi có tượng danh tướng ngồi trên lưng ngựa.
Về tranh ngựa, có
nhiều họa sĩ Đông Tây chuyên vẽ tranh ngựa.
-Từ Bi Hồng (1895 - 1953):
là họa sĩ Trung Hoa hiện đại. Danh họa để lại hàng nghìn kiệt tác đồng thời đào
tạo nên những họa sĩ tên tuổi của Trung Hoa.
Tranh của Từ Bi Hồng
Tác phẩm Green
Horse, tranh của Sambuu
Sambuu từng nghiên
cứu về mỹ thuật truyền thống Mông Cổ tại Soyol Fine Art College ở
-John Maler
Collier
(1850 –1934): họa sĩ và tác giả người
Anh.
Một họa phẩm xuất sắc của John
Collier, Nàng Godiva,
1898, đang
cỡi trên một con ngựa
trắng.
4. Ngựa trong võ thuật:
“Gió
qua lay trúc, gió đi rồi trúc không lưu luyến âm thanh. Nhạn lướt mặt hồ, nhạn
bay rồi mà hồ không giữ hình ảnh nhạn. Người quân tử cũng vậy, việc xảy ra
thì tâm tiếp xử, việc qua rồi, tâm lại hư không”
(-dịch từ thơ chữ Hán).
Người dụng võ sẽ
thấy ngựa trong võ thuật như bóng dáng của thiên thần (Thiên mã hành
không).
Chân Ngựa (Mã Bộ)
là nền tảng của các thế tấn; phương pháp di chuyển, nghệ thuật tấn
công, phòng thủ, phản đòn, biến thế nhất nhất đều gắn liền với chân
ngựa như chiến tướng trên lưng ngựa hiểu ý ngựa, ngựa hiểu ý chủ,
phối hợp điệu nghệ mới thành công.
Võ thuật cổ
truyền có nhiều môn phái, võ phái, hệ phái, lưu phái, gia phái. Mỗi
trường phái có cách thể hiện riêng nên về Mã Bộ cũng có đôi điều
khác biệt. Mười tám bài Võ quy định của Liên đoàn Võ thuật Cổ
truyền Việt Nam có 1 bài liên quan tới ngựa:
-“Chắp thủ khai
mã; song thủ phá cước.” (Lão hổ thượng sơn).
Mã Bộ dùng để
gọi chung cho nhiều bộ vị như:
Thập tứ mã bộ
chân quyền; Thuận thiên nghịch mã; Kỵ mã bộ; Tứ bình mã bộ, Trảo mã
bộ; Nhị tự kiềm dương mã; Bạch mã hiến đề; Chắp thủ khai mã; Bạch
mã hồi đầu; Bái tổ thâu mã; Nghịch mã cước; Hồi mã cước; Hồi mã
thương; Ngựa chiếc; Ngựa đôi; Ngựa biên; Ngựa ba chân hổ; Ngựa tứ bình;
Đổi ngựa; Hốt ngựa; Gài ngựa; Triệt mã; Phá mã…; ngoài ra trong võ
thuật còn có loại hình Võ bọ ngựa (ngựa trời)gọi là Đường lang
quyền (Praying mantis Kungfu)… Hồi Mã Thương là 1 món võ nổi tiếng.
Trong quan niệm cổ, ngựa được xếp dưới nguyên
lý Dương, tượng trưng cho yếu tố Hỏa. Có nơi, ngựa tượng trưng cho Mặt Trời. Có
nơi, ngựa là vật hiến tế trong tín ngưỡng thờ thần Mặt Trời.
Trên đồ gốm cổ VN được trang trí hình ngựa bay
có 2 cánh giống như ngựa trong văn hoá Ấn Độ, Trung Hoa.
Dân Hồi giáo ở Đông Nam Á có tục thờ Ngựa, coi
Ngựa là vật linh thiêng. Ngựa là một trong những chòm sao của Hoàng Đạo phương
Tây, được hình tượng hóa qua người bắn cung Sagittarius, xuất hiện ở vòng cung
thứ chín dưới dạng hình Nhân Mã.
Người ta quan niệm
rồng bay lên là tung, mã chạy ngang là hoành. Long Mã tượng trưng cho sự tung
hoành của nam nhi, hay cho những bậc anh hùng cái thế.
Về nhân tướng, theo
quan niệm Phương Đông, người sinh năm Ngọ thường phóng khoáng, có suy nghĩ độc
lập, ít để bụng, thích làm ngay không chần chờ do dự.
Trong Kinh Pháp cú
nhà Phật có câu:
“Tinh tấn giữa đám người buông
lung, tỉnh táo giữa đám người mê ngủ, kẻ trí như con tuấn mã thẳng
tiến, bỏ lại sau lưng những con ngựa gầy hèn”.
Nhờ bản tính đặc biệt, Ngựa được con người thần
thánh hóa, huyền thoại hóa, trở thành con vật linh thiêng trong đời sống văn hoá
tâm linh.
6. Ngựa Trong chiến tranh,
quân sự:
Từ những ngày xa
xưa, ngựa trở thành biểu tượng oai phong lẫm liệt cùng bao chiến tướng
lưu danh thiên cổ.
Nói đến ngựa
không thể không nhắc đến vó ngựa Mông Cổ. Từ khi Thành Cát Tư Hãn
(Genghis Khan 1162 - 1227) được tôn làm Đại Hãn (Gurkhan) thì vó ngựa
Mông Cổ tung hoành khắp các thảo nguyên, đánh chiếm từ Á sang Âu. Nhưng
rồi đoàn quân thiện chiến ấy lại ba lần đại bại trên đất Đại Việt. Ngày
khải hoàn dự đại lễ tại
Chùa Lăng, Vua Trần Nhân Tông cảm khái làm hai câu thơ trước con ngựa đá:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch
mã
Sơn hà thiên cổ điện Kim
âu.”
(Xã tắc hai phen bon
ngựa đá;
Non sông nghìn
thuở vững âu vàng).
Một hình ảnh ấn
tượng khác là ngựa miền Viễn Tây, Hoa Kỳ, tái hiện trong các phim Cao
bồi. Trên lưng ngựa, anh hùng miền Viễn Tây, hoặc thổ dân da đỏ tung vó
bốn phương, hành hiệp giang hồ, anh hùng mã thượng, mặt đối mặt, hiên
ngang rút súng ru lô (rouleau) bắn nhanh như chớp, hoặc bắn cung, phóng
lao, ném búa, đấu dao găm điêu luyện tại những cuộc chạm trán để tranh
giành lãnh địa, v.v…
Ngựa gắn liền với kỵ
binh, kỵ sĩ, hiệp sĩ Tây Phương hay dũng sĩ, chiến binh miền thảo nguyên, sa
mạc. Từ đó có những từ ngữ như: ngựa chiến, giáp trụ, sa trường, xa mã.
Trong lịch sử Việt Nam, Phù Đổng Thiên Vương đã
cỡi Ngựa sắt, đánh tan giặc Ân xâm lược, rồi phi Ngựa lên núi Sóc Sơn bay về
trời, là hình ảnh kỵ binh đầu tiên của VN.
Ngày xưa, các danh tướng cỡi ngựa chiến xông
pha trận mạc. Tại các nước Âu Mỹ, có
những pho tượng đồng lớn ghi tên tưởng niệm những vị tướng tài. Alexander
(356-323
Tất cả đều có tài cầm quân, bách chiến bách
thắng, từng xử dụng những đoàn kỵ binh thần tốc, tinh nhuệ. Những tượng đài
tưởng niệm của các vị nầy đều ngồi trên lưng chiến mã. Ngựa gắn liền với chiến
công hiển hách. Những chiến sĩ dọ thám, liên lạc, truyền tin, vận chuyển dùng
Ngựa để ngược xuôi giữa các chiến trường. Ngày nay, binh chủng Thiết Giáp được
gọi là Kỵ binh.
7. Ngựa Trong Hình Pháp:
Tứ mã phân thây (đôi
khi gọi là tứ
mã phanh thây) tức là cột tứ
chi của tội nhân cho bốn con ngựa kéo về bốn hướng
là một hình phạt thời phong kiến. Khi
hành hình, các nài ngựa sẽ thúc ngựa phi ra bốn hướng còn không có nài ngựa thì
người ta sẽ hét lớn hoặc đánh ngựa để chúng hoảng sợ bỏ chạy. Từ đó bốn sợi dây
sẽ kéo tứ chi phạm nhân đến khi thân thể của phạm nhân bị xé thành nhiều mảnh.
Phạm nhân sẽ bị bỏ mặc cho máu chảy đến chết.
8. Ngựa Trong đời sống:
-Ngựa
được con người xếp loại “khuyển mã chi tình”, nghĩa là chó và ngựa
là giống vật có tình. Thế nhưng con người lại không chí tình.
Chuyện kể trên
núi Vân Vụ bên Tàu trồng trà, quanh năm mây phủ. Buổi sáng người ta cho ngựa
nhịn đói lên núi ăn đọt trà no nê rồi
giết chết ngựa, mổ dạ dày ra lấy trà, chế biến
thành 1 loại trà qúy gọi là "Trảm Mã Trà". Ngựa in dấu nhiều nơi trên
thế giới từ Hy Lạp cổ đại, Ai Cập cổ đại, La Mã cổ đại, Trung Cận
Đông, Việt Nam, Trung Quốc, Ả Rập Hồi giáo, Châu Âu Trung cổ, Mông Cổ…
-Bọ ngựa: Con vật
nhỏ, nổi tiếng với việc ăn thịt bạn tình trong
khi giao phối, ngay khi còn sống.
Bọ ngựa.
-Những kiểu búi tóc đuôi ngựa vô cùng quyến rũ,
trữ tình, quý phái thịnh hành như sau đây:
-Xe Thổ Mộ xuất hiện từ khoảng thập niên 80/
thế kỷ 19
có nguồn gốc từ những chiếc xe song mã sang trọng của
Vua chúa, của giới thượng lưu tại nước Pháp. Người dân Nam Việt đã cải tiến cho
thích hợp với địa hình của miền quê sông nước. Xe Thổ Mộ có 2 bánh bằng cây;
thân xe trang trí rất đẹp, được kéo bởi một con Ngựa. Người ta phải đóng móng
ngựa bằng sắt. Mắt Ngựa được che hai bên, chỉ nhìn về phía trước. Xe có thể chở
từ 5-7 người cùng với hành lý nặng nề.
-Có dòng họ Mã
như danh tướng Mã Siêu, nhạc sĩ Mã Đình Sơn…
-Trong dân gian có cụm: từ thiên lý mã, phi
ngựa, cỡi ngựa, lạm phát phi mã, mã lực, vành móng ngựa. Con
đĩ ngựa, đồ ngựa, giở
chứng ngựa… được dùng để ám chỉ phụ nữ
có sức mạnh tình dục cao, trong khi đàn ông thì dùng hình ảnh con dê.
9. Ngựa trong âm
nhạc:
Nhiều
lắm chỉ xin trích lời ca từ một số bài nổi tiếng:
-Lệnh vua
hành quân trống kêu dồn, quan với quân lên đường, đoàn ngựa xe cuối cùng, vừa
đuổi theo lối sông…
-Ngựa phi
ngoài xa hí vang trời, chiêng trống khua trăm hồi, ngần ngại trên núi đồi, rồi
vọng ra khắp nơị. Phiá cách quan xa vời, chiêng trống khua trăm hồi, ngần ngại
trên núi đồi, rồi dậy ra khắp nơi, thắm bao niềm chia phôi.
(HÒN VỌNG PHU 1, Nhạc và lời: Lê Thương)
-Đường chiều
mịt mù cát bay, tỏa buớc ngựa phi. Đường trường nếp tàn y, hùng cường vẫn còn
bay trong gió. Bóng từ xa, sắp dần qua, bóng chàng chập chùng vuợt núi non cũ.
Với hành lương độ đường, chiếc hùng gươm danh tướng. Dưới tà huy, đếm nhịp đi,
vó ngựa phi… Dấn bước tang bồng giữa nơi núi rừng (-HÒN VỌNG PHU 3, Nhạc và lời:
Lê Thương).
-Tuấn mã ơi hãy phi mau về báo hung tin cho quân ta được rõ rằng Võ
Đông Sơ đã vùi thây nơi cát bụi quan… hà…”
(Bài vọng cổ Võ Đông Sơ -
Bạch Thu Hà).
Sáng tác: Phạm
Duy
Ngựa hoang nào dẫm nát tơi bời
Đồng cỏ nào xanh ngát lưng trời
Ngựa phi như điên cuồng
Giữa cánh đồng dưới cơn giông
Vì trên lưng cong oằn
Những vết roi vẫn in hằn
Một hôm ngựa bỗng thấy thanh bình
Thảm cỏ tình yêu dưới chân mình
Ân tình mở cửa ra với mình
Ngựa hoang bỗng thấy mơ
Để quên những vết thù
Ngựa hoang muốn về tắm sông nhẫn nhục
Giòng sông mơ màng mát trong thơm ngọt
Ngựa hoang quên thù oán căm
Từ nơi tối tăm về miền tươi sáng
Ngựa hoang về tới bến sông rồi
Cởi mở lòng ra với cõi đời
Nhưng đời ngựa hoang chết gục
Và trên lưng nó ôi
Còn nguyên những vết thù
Lý Ngựa Ô:
Sáng tác: Y Vân
Ngẫu Hứng Lý Ngựa Ô:
Sáng tác: Trần
Tiến
Đêm phương
Nghe một tiếng ầu ơ nửa đêm bão giông
Đêm phương
Nghe một thuở hồng hoang ngựa qua bến sông
Đêm phương
Nhìn hòn đá lăn Nghiêng, nghiêng,
Nghiêng nghiêng câu ca dao,
Nghiêng nghiêng mái chèo
Dưới bóng cây bóng cây ngô đồng, có con ngựa dừng
chân, Có hai người yêu nhau
Khớp khớp khớp khớp con ngựa ô ngựa ô ngựa ô
Ngàn năm thương nhớ đất nước có bao bài ca tình yêu
ngựa ô
Để anh đón nàng Ơ hơ, ơ hơ, ơ hơ, ơ hờ
Cho ai yêu thương nhau bên nhau mãi mãi
Có tiếng vó khớp con ngựa ô ngựa ô ngựa ô
Ngàn năm thương nhớ đất nước có bao bài ca tình yêu
ngựa ô
Để anh đón nàng Ơ hơ, ơ hơ, ơ hơ, ơ hờ
Cho ai yêu thương nhau bên nhau suốt đời
Khớp khớp khớp khớp con ngựa ô
Ô ô ô để anh khớp Khớp khớp khớp con ngựa ô
Ô ô ô để anh khớp Khớp ô ô khớp Khớp con ngựa ô ngựa ô
-Một
con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ.
-Mã
đáo thành công.
-Ngựa
non háu đá.
-Cỡi
ngựa xem hoa.
-Ngựa
chứng là ngựa hay.
-Ngựa
quen đường cũ.
-Ngưu
tầm ngưu, mã tầm mã.
-Đầu
trâu mặt ngựa.
-Thẳng như ruột ngựa.
-Ngựa
lồng cóc cọt cũng lồng.
-Da
ngựa bọc thây.
-Đơn
thương độc mã.
-Thiên binh vạn mã.
-Chiêu binh mãi mã.
-Một
mình một ngựa.
-Nhất
ngôn ký xuất, tứ mã nan truy:
(Một lời nói ra bốn ngựa khó tìm.)
-Tái
ông mất ngựa.
-Bóng
câu
qua cửa sổ.
-Mặt
như mặt
ngựa.
-Đường dài mới biết ngựa hay.
-Thay
ngựa giữa dòng
-Ngựa
về ngược
-Voi
dày ngựa xé
-Tứ
mã phân thây
-Ðược đầu voi,
đòi đầu ngựa.
-Hàm chó, vó ngựa, cựa gà, ngà voi.
-Gái có chồng như ngựa có cương.
-Ngựa nào gác
được hai yên.
-Chữ tốt xem tay, ngựa hay xem xoáy.
-Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn;
-Ngựa le te cũng đến bến giang, voi đủng đỉnh cũng sang qua đò.
-Dần Ngọ Tuất tam hợp.
11. Ngựa Trong
Ðiển Tích:
-Tái ông thất mã:
"Tái ông thất mã"
nghĩa là ông già ở biên giới mất ngựa".
Sách của Hoài Nam Tử
chép:
Một ông lão ở gần
cửa ải Nhạn Môn (nơi giáp giới với Phiên Quốc (Hồ) mất con ngựa. Mọi người đến
chia buồn. Ông lão nói:
-Mất
ngựa biết đâu là 1 cái phúc!
Mấy tháng sau, ngựa trở về dẫn theo một con ngựa tốt. Mọi người đến chúc mừng.
Ông lão nói:
-Được
ngựa biết đâu là 1 cái họa!
Được ngựa tốt, con
ông lão mê cỡi bị té gãy chân. Mọi người đến chia buồn. Ông lão nói:
-Què
thế biết đâu lại là 1 cái phúc!
Cách một năm có giặc
Hồ, lệnh Vua bắt thanh niên đi đánh giặc. Quân lính mười người chết hết chín.
Con ông lão vì què, nên khỏi đi lính.
"Tái ông thất mã" là
một thành ngữ chỉ sự họa, phúc xoay vần, khó mà biết trước được. Trong cái phúc
thường có cái họa, trong cái họa thường có cái phúc.
-Con ngựa thành Troie:
Theo thần thoại,
quân Hy Lạp muốn chiếm thành, đã dùng một con ngựa gỗ trong bụng chứa nhiều quân
mai phục đánh lừa quân Troie vào bên trong thành đánh úp, hạ thành trong đêm.
Sau này “Con ngựa thành Troie” dùng để chỉ việc làm có nội ứng bên trong.
-Bóng ngựa qua cửa sổ
Thường được nghe là
bóng câu, chỉ thời gian trôi nhanh. Xuất phát từ câu nói Mạnh Tử:
“Nhân thiên địa chi
gian, nhược bạch câu chi quá khích, hốt nhiên chi dĩ.”
(Nghĩa là người ta
sống trong khoảng trời đất cũng như ngựa trắng qua cửa sổ trong chốc lát).
Hán Thư cũng có chú
thích rằng bạch câu là con ngựa non, dùng để chỉ sự lướt nhanh cửa bóng mặt
trời.
Da ngựa bọc thây
Mã Viện đã trả lời
Hán Quan Vũ (trong Hậu Hán Thư) rằng:
-“Đại trượng phu nên
chết ở chiến trường, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, chứ sao lại nằm yên trên
giường, trong tay bọn đàn bà trẻ con mà được ư.”
-Thẳng như ruột ngựa:
Khi nói về tính bộc
trực người ta nói “thẳng như ruột ngựa", bởi ruột ngựa dài 22m, ngắn hơn ruột
trâu bò, cũng uốn khúc như trâu bò nhưng ống tiêu hóa của chúng có manh tràng,
thực chất là một túi bịt đáy dài 1 m, đường kính 0,20 có thể chứa được 30 lít
thức ăn trong quá trình tiêu hoá. Trong manh tràng có nhiều vi khuẩn giữ vai trò
lên men thức ăn, giúp tiêu hoá được dễ dàng, ở ngựa không có tập tính nhai lại,
do dạ dày không có 4 ngăn như trâu bò. Manh tràng làm thành một một túi xếp
thẳng trong khoang bụng nên ngựa được mệnh danh là thẳng như ruột ngựa. Ngựa có
thể nhịn được đến 2-3 ngày, nhịn thức ăn từ 3 tháng đến 1 năm, chúng chỉ ăn toàn
cỏ vẫn sống được nhưng không béo khoẻ.
-Một con ngựa đau cả tàu không ăn
cỏ:
Dân gian mượn chuyện
con vật có thật, để nói đạo làm người. Câu thành ngữ đã nêu truyển thống tương
thân, tương ái của cộng đồng người.
-Vành móng ngựa:
Xưa kia ở La Mã, nhà
nước trừng trị phạm nhân bằng cách dùng ngựa xé xác. Đó là cách thể hiện sự
nghiêm minh của pháp luật. Về sau người ta lấy vành móng ngựa để làm biểu trưng
cho uy lực của pháp luật. Do đó trong các phiên tòa, bị cáo phải đứng trong vành
móng ngựa. Thành ngữ trước vành móng ngựa được hiểu là trước toà án, trước pháp
luật, chịu sự trừng phạt của pháp luật.
-Ngựa
trắng có cánh:
Trong thần thoại Hy
Lạp, hình ảnh ngựa trắng có cánh biết bay, tượng trưng cho cảm hứng trong sáng
tạo thi ca.
-Ngựa
Hươu: do câu "Chỉ lộc vi mã". Triệu
Cao đời Tần bên Tàu ỷ mình lập Hồ Hợi lên làm vua (tức Tần Nhị Thế), một hôm
mang con hươu vào cung chỉ cho Vua nói là con ngựa. Vua bảo Tể Tướng nói sai.
Triệu Cao ngoảnh mặt hỏi các quan, các quan vì sợ Triệu Cao nên đều nói đó là
con ngựa. Nghĩa bóng chỉ người điêu ngoa, gian trá, tráo trở.
-Ngựa
Tre: tích đời Hậu Hán. Có quan Thái
Thú là Quách Cấp thanh liêm chính trực, làm Thái Thú tại Tĩnh Châu. Sau đổi đi
nơi khác, một thời gian được chiếu chỉ triều đình cho về lại Tĩnh Châu. Dân
chúng kết con ngựa tre mang ra thành rước Quách Cấp vào.
Nghĩa bóng: rước được vị quan thanh liêm chính
trực về địa phương của mình.
-Ngựa
Hồ, Chim Việt: tích nói dân Hồ phương Bắc mang triều cống Vua Hán Võ Ðế một
con ngựa qúy nổi tiếng là "Thiên Lý Mã". Vua cho nuôi tại vườn Thượng Lâm. Thế
nhưng ngựa bỏ ăn, khi thấy gió Bắc thổi tới là ngựa hí lên vui mừng sau buồn bỏ
ăn mà chết. Còn chim Việt là do tích Vua Phương
Việt điểu sào
Hồ mã tê Bắc phong
Nghĩa là: Chim Việt đậu cành cây phương
Ngựa Hồ hí lên khi thấy gió Bắc.
Nghĩa bóng chỉ lòng tưởng nhớ quê hương
-Trú Mã
Pha: do chuyện kể giữa Lưu Bị và Tôn
Quyền cùng thi cưỡi ngựa, khi Lưu Bị đi làm rể tại Ðông Ngô. Ðây là ngọn núi nơi
cất chùa Cam Lộ bên Ðông Ngô. Sau vụ việc cưỡi ngựa này, nơi đây đổi tên là Trú
Mã Pha.
-Bóng
Câu Qua Cửa Sổ: nhanh như ngựa phóng
qua cửa sổ. Ý nói thời gian qua rất nhanh. Cùng nghĩa với chữ "Câu Ảnh". Trong
Tống sử có câu:
"Nhân sinh như bạch câu quá khích"
(nghĩa là: đời người như con ngựa
trắng chạy qua lỗ hở).
12. Ngựa Trong Ðịa
Danh Lịch Sử: Núi Mã Yên,
Quỷ
Môn Quan, Ải Chi
Lăng:
Bạch Ðằng Giang hai lần nhuộm máu quân thù. Gò Ðống Ða
mồ chôn mấy vạn quân Thanh. Núi Mã Yên, Chi
Lăng nơi Liễu Thăng bị chém đầu và hơn
một vạn quân Minh bị giết trong trận chiến đánh đuổi giặc Minh vào thế kỷ thứ 15
(1407-1427) dưới sự lãnh đạo của Bình Ðịnh Vương Lê Lợi và Quân sư Nguyễn Trãi
đã giải ách nô lệ cho dân Việt.
Núi Mã Yên (giống
như cái yên ngựa cao độ
200m) ảnh
Tuyết Nhung.
Xã
Chi Lăng thuộc tỉnh Lạng Sơn là nơi có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như
Quỷ Môn Quan,
Núi Mã Yên, Ải Chi Lăng - con đường độc đạo nghìn năm giữ nước.
Núi Mã Yên còn gọi là Gò Mã Yên gần Ải Chi Lăng,
thuộc xã Chi Lăng, huyện Chi
Lăng. tỉnh Lạng
Sơn (cách Hà Nội 105 km) trên quốc
lộ từ Hà Nội
đi Lạng Sơn.
Toàn bộ ải Chi Lăng
như một thung lũng nhỏ, hình bầu dục dài khoảng 4km, chỗ rộng nhất ở giữa khoảng
1km. Phía tây có dãy núi đá vôi Cai Kinh dựng đứng và phía đông có dãy núi Bảo
Đài, Thái Hòa trùng điệp. Con sông
Thương ngoằn ngoèo chảy dọc theo thung lũng. Những ngọn núi thấp rải rác dọc
thung lũng, nằm ven đường cái quan như: núi Hàm Quỷ, núi Phượng Hoàng, núi Kỳ
Lân, núi Mã Yên. Đóng khóa hai đầu của thung lũng, nơi hai vòng cung núi đất
phía Đông và núi đá phía Tây khép lại, là lũy Ải Quỷ phía Bắc và núi Ngõ Thề
phía Nam, ôm kín trong lòng một ải quan.
Từ khi Ngô Quyền giành được độc lập, Lạng Sơn
trở thành địa đầu Tổ quốc. Địa thế hiểm yếu được người xưa ghi lại như sau:
"Hàng nghìn ngọn núi la liệt, hàng nghìn khe suối
quanh vòng, khí núi độc, đường đất hiểm trở, đi lại khó khăn...".
Lên Lạng Sơn, khi qua ải Chi Lăng, đứng nhìn về
phương
Do vị trí địa hình đặc biệt, nơi có con đường
huyết mạch từ biên giới phía Bắc vào nước ta, nên qua các triều đại từ Đinh, Lý,
Trần, Lê... thời nào ải Chi Lăng cũng lập nên những chiến công.
Đá Liễu Thăng cụt đầu, thắng tích
của Chi Lăng
Tại Quỷ Môn Quan có hai khối núi đối
nhau và ở giữa có độ rộng 30 bước.
Mã Viện đánh
Việt
Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan!
Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn.
Nghĩa là:
Ải cửa Quỷ, Ải cửa Quỷ!
Mười người đi, một người về.
Xưa kia, sứ bộ Việt
Từ thế
kỷ 14, Tể tướng nhà
Trần là Phạm
Sư Mạnh (học trò giỏi của nhà giáo Chu
Văn An) đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) đời vua Trần
Minh Tông dừng chân trước Ải Chi Lăng trên đường tuần thú xứ Lạng
đã cảm tác bài “Chi
Lăng Động” xin trích
nguyên văn 2 câu sau:
Lâu phong bạt mã cao
hồi thủ
Chi Lăng quan hiểm dữ thiên tề
Nghĩa là:
Trước gió ghì cương ngựa, lên cao ngoảnh
đầu nhìn.
Chi Lăng ải hiểm tựa
lên trời.
Năm 1804 thời nhà Nguyễn, thi hào Nguyễn Du lúc
lên trấn Nam Quan nghênh tiếp sứ Tàu sang phong sắc cho vua Gia Long, khi qua Ải
Chi Lăng có làm bài thơ sau:
Quỷ Môn Đạo trung
Quỷ
Môn thạch kính xuất vân côn
Chinh
khách nam quy dục đoạn hồn
Thụ
thụ đông phong xuy tống mã
Sơn
sơn lạc nguyệt dạ đề viên
Trung
tuần lão thái phùng nhân lãn
Nhất
lộ hàn uy trượng tửu ôn
Sơn ổ
hà gia đại tham thụy
Nhật
cao do tự yểm sài môn.
Nguyễn Du
-Quỷ
Môn quan: Ở phía nam xã Chi Lăng, đường
hẹp, núi dốc, địa hình hiểm trở, có 1 ngọn núi trông như đầu quỷ, cho nên mới
gọi ải đó là Quỷ Môn Quan.
-Xong sứ mệnh, Nguyễn Du trở về kinh, năm ấy là năm
Giáp Tí (1804), tác giả mới 40 tuổi, nhưng đầu đã bạc trắng.
Dịch nghĩa:
Đường đá ở núi Quỷ Môn từ chân mây
đi ra,
Lữ khách về nam trông thầy mà kinh hồn.
Gió đông thổi qua hàng cây vào đám ngựa đi tiễn.
Trăng tà lặn sau dãy núi, ban đêm nghe tiếng
vượn hú.
Ta đang độ tuổi trung niên mà đã có vẻ già, rất
ngại chuyện thù tiếp.
Dọc đường trời lạnh, nhờ hơi rượu mà ấm lòng.
Trong xóm dưới núi kia, nhà ai ham ngủ thế?
Mặt trời lên cao rồi mà cửa tre còn đóng kín.
Trên đường qua Ải Quỷ Môn
Quỷ Môn đường đá dựng, mây vờn,
Chinh khách về
Gió thốc cây rung, ngựa tiễn biệt,
Trăng tàn núi lạnh, vượn kêu buồn.
Trung niên già cỗi khách lười tiếp,
Độc đạo rét run rượu uống dồn.
Xóm núi nhà ai còn ngái ngủ,
Then cài, cửa đóng, nắng xuyên thôn.
Vinh Hồ
tạm dịch.
Đọc thơ xưa, ta thấy
tiền nhân từ Tể tướng thời Trần -
Phạm Sư Mạnh
- đến đại thi hào Nguyễn Du thời Nguyễn - đã từng đến miền quan ải phía Bắc và
đã viết nên những vần thơ tuyệt bút ca ngợi vùng đất thiêng, một vị trí hiểm
trở, trọng yếu của Tổ Quốc. Nhờ vị trí hiểm trở, trọng yếu đó, mà nước VN được
bảo vệ suốt chiều dài lịch sử. Cho nên tiền nhân đã khuyên cháu con phải giữ gìn
từng tất đất không để lọt vào tay địch, nhất là vùng đất thiêng ở địa đầu biên
ải phái Bắc.
13. Ngựa
và chuyện tình tay ba giữa Đường
Minh Hoàng, Dương Quý Phi và An Lộc Sơn:
Ngựa còn gắn liền với cuộc đời
hiển hách của bao danh tướng và giai nhân, như trong chuyện tình tay ba giữa Đường Minh Hoàng, Dương Quý Phi
và An Lộc Sơn.
Dương Quý phi
thích ăn trái vải, nhưng vải chỉ trồng được ở đất Lĩnh
Việc vận chuyển vải về kinh thành do những con
ngựa chiến đảm nhận. Mỗi khi tới trạm, quan cho đổi một con ngựa mới. Để thỏa mãn sở thích của giai
nhân, nhiều người đã bỏ mạng, nhiều chiến mã đã chết vì kiệt sức trên đường.
Dương Quý Phi
rất được hoàng đế yêu chiều, nhưng nàng lại tư thông với Tiết Độ Sứ An Lộc Sơn -
một danh tướng, cận thần của Vua. Biết Dương Quý Phi thích quả lệ chi, An Lộc
Sơn cỡi chiến mã xuống Lĩnh Nam hái mang về, nhằm lấy lòng giai nhân, người mà
sắc đẹp đã khiến cho hoa phải thu mình lại vì hổ thẹn (tu hoa). Nàng còn
có cả tài đánh đàn tì bà, thổi
sáo nữa. Sau này,
nàng được liệt vào danh sách Tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa.
Phạm Băng Băng trong
vai Dương Quý Phi
Có nhiều phim dựng lên từ chuyện
tình tay ba này.
"Dương
Quý Phi"
là bộ phim có kinh phí dự tính lên tới 20 triệu USD với sự hợp tác sản xuất của
một số đơn vị điện ảnh ba nước Trung – Nhật – Hàn. Phạm Băng Băng thủ
vai diễn Dương
Quý Phi.
Trước 1975,
có vở
tuồng
cải lương “Chuyện Tình An Lộc Sơn” do Thanh Nga, Tấn Tài, Thanh Sang, Ngọc Giàu,
Ngọc Thủy, Minh Trung thủ diễn, xin trích vài đoạn:
-An Lộc Sơn:
Trùng ngàn trùng sỏi đá nắng cháy ngựa phi gió câu chẳng dừng chân nơi đâu,
đường về thành Trường An xa xôi, long mơ thấy ánh mắt Thái Chân tim nghe bồi
hồi.
-An Lộc Sơn:
Thái
Chân ơi! Vừa biết được Thái Chân yêu thích quả lệ chi đất Lĩnh, thần xin đem
chút tài kỵ mã rời khỏi Trường An thương nhớ trên lưng ngựa nâng niu giữ vẹn quả
tươi… hồng.
Lòng
nôn nóng khi nhìn thấy Dương Phi cắn trái mộng giữa môi hồng.
Thở khói như
mây Long Câu trổ tài thiên lý, tại người nóng lòng hay ngựa nản chân bon, đây
tâm tình của An tướng An Lộc Sơn, cuồng nhiệt quá thành vụng về khờ
dại, sợ quả giập bầm còn hơn sợ thọ
trọng thương, lo trái mất ngon còn hơn lo đoạt thành cướp ải,
tâng tiu quả lệ chi như yêu quí bản thân mình.
-An
Lộc Sơn: Trời ơi! Thái Chân ơi! Ta dấy cuồng phong là
mong nàng ngự trên ngôi cao tuyệt điỉnh nào ngờ đâu qua bao đao lửu tan thương
ta chỉ còn lại Thái Chân một thể xác không hồn. Thái Chân ơi! Còn đầu nữa thiết
tha, điện ngọc, cung son, sơn hà, cẩm tú có nghĩa gì đâu danh anh hùng đắt thắng
khi ôm trong tay người yêu rũ rượi khép mi sầu.
14. Ngựa Trong Sấm Ký của
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Nguyễn Bỉnh Khiêm tên
huý là Nguyễn
Văn Đạt, tên tự là Hanh
Phủ, hiệu là Bạch
Vân cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết
Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch
sử và văn hóa VN trong TK 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức,
tài thơ văn của một nhà giáo, cũng như tài tiên tri. Người đời coi ông là nhà
tiên tri số một trong lịch sử Việt
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên
trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt
Ngay trong phần đầu của tập sấm
ký có tựa đề “Trình
tiên sinh quốc ngữ” tên Việt
“Việt
Danh xưng Việt
“Việt
(Vịnh về
non sông đất nước Việt Nam).
Ngoài ra còn có hai bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi
hai người bạn thân:
-Bài thứ nhất gửi Trạng nguyên Thư Quốc công Nguyễn
Thiến, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:
Tiền
trình vĩ đại quân tu ký
Thùy
thị phương danh trọng Việt Nam
(Tiền đề
rộng lớn ông nên ghi nhớ, Ai sẽ là kẻ có tiếng thơm được coi trọng ở Việt
-Bài thứ hai gửi Trạng nguyên Tô Khê hầu Giáp
Hải, hai câu cuối viết:
Tuệ tinh
cộng ngưỡng quang mang tại
Tiền
hậu quang huy chiếu Việt
(Cùng
ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời, Trước sau soi ánh sáng rực rỡ vào nước
Việt
Vạn lý Đông minh quy
bả ác,
Ức niên
Nguyên văn bài thơ:
Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh,
Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh.
Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực,
Trước cước trào vô quyển địa
thanh.
Vạn lý Đông minh quy bả ác,
Ức niên
Ngã kim dục triển phù nguy lực,
Vãn khước quan hà cựu đế thành.
Dịch nghĩa:
Con rùa lớn đội núi
Nước biếc ngâm núi tiên trong tận
đáy,
Con rùa lớn đội được bầu ngọc mà
sinh ra.
Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời
Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn
không dội tiếng vào đất.
Biển Đông vạn dặm đưa về nắm trong
bàn tay,
Muôn năm cõi
Ta nay muốn thi thố sức phù nguy,
Lấy lại quan hà, thành xưa của nhà
vua).
Trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các
tập sấm ký Nôm thường mang tên Sấm Trạng Trình
và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình
quốc công sấm kí, Trình
tiên sinh quốc ngữ.
Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm
là những lời tiên tri của Ông về các
biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến khoảng năm
2019). Người Tàu phải phục tài lý số của ông nên có câu: "An
Trong
Bộ Sấm Ký có 2 câu liên hệ đến ngựa như sau:
"Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên
lai kiến thái bình."
15. Kết
Luận:
Trong 12 con Giáp,
đứng trước Ngựa là Rắn trông dữ dằn, gớm ghiết; đứng sau Ngựa là Dê trông xấu
xí, tiếu lâm. Trong 12 con Giáp không con nào có thân hình đẹp đẽ, cân đối, thẩm
mỹ, có tánh tình hiền lành, chung thủy, có cuộc đời oanh liệt dọc ngang trên
thiên lý như Ngựa.
Ngựa in dấu nhiều nơi trên thế
giới từ Hy Lạp cổ đại, Ai Cập cổ đại, La Mã cổ đại, Trung Cận Đông,
Ả Rập Hồi giáo, Châu Âu Trung cổ, Việt Nam, Trung Quốc, Mông Cổ…
Ngựa hiện diện trong đời sống vật
chất, tâm linh, tinh thần của con người.
Sau 1 năm con Rắn, thế giới trải
qua nhiều thiên tai, địch họa.
Năm con Ngựa cầu mong thế giới được hòa bình, dân chủ, tự do; cầu chúc mọi người
được phước, lộc, thọ, khương, an và hạnh phúc.
Vinh Hồ
sưu tầm