Cõi
Thơ Uyên
Thúy Lâm, Điệp Khúc Chia Ly,
Hoài Vọng, Thương Nhớ, Đi Tìm.
Năm 2009, nhà thơ nữ Uyên
Thúy Lâm (UTL) đến với Tuyển Tập
Văn Nghệ Tự Do
số
1, dù chỉ
có 2 bài “Tiếng Mẹ ngày xưa”, “Tiên Dung và Chử
Đồng Tử”,
nhưng đã chuyển tải nhiều hiện thực sinh động:
Lời mẹ bồng
bềnh như mây trắng
Chim hót
vườn xưa nắng xế mành
Hồn nước
quyện hòa câu hát mẹ
Mái đình
ngói đỏ bóng tre xanh
(Tiếng Mẹ
ngày xưa, trích TT/VNTD trang 212)
Ngòi bút UTL đã tỏ ra tài
hoa không chỉ trong tả
tình mà còn trong tả cảnh nữa:
Nước sông
trong vắt sóng lăn tăn
Nước mát vỗ
về dáng mỹ nhân
Em tưởng
chỉ cùng sông tỏ lộ
Giáng tiên
thơm, trong ngọc trắng ngần
(Tiên Dung
và
Chử
Đồng Tử, trích TT/VNTD trang 211)
Bốn câu thơ trên đẹp như một bức tranh thủy mặc được chấm phá đầy nghệ
thuật đã khiến tôi liên tưởng đến vùng sông nước Miền Tây (quê hương của tác
giả) mà dòng Cửu Long mênh mông bát ngát là nơi trải rộng tâm tình của bao cô
gái Tây Đô kiều diễm:
Tôi đợi ai
về trên bến sông
Bao mùa qua
nước đã thay dòng
(Lời người thương binh)
Ngàn lau lả
ngọn bên bờ
Nhòa trong
sắc nắng con đò lướt nhanh.
(Lời Xuân xưa)
Những con đò lướt nhanh trên Cửu Long Giang gợi nhớ đến dòng sông
Mississippi nơi Thi sĩ Walt Whitman (1819-1892)
từng chèo thuyền xuôi ngược mà tập thơ Lá Cỏ (Leaves of Grass) của ông đã mở ra
một thế giới thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, rộn
rã tình yêu cuộc sống. Thiên nhiên luôn rạo rực sinh động trong từng lá cỏ, ngọn
sóng, hãy nghe tác giả Whitman tâm sự:
"Khi
tôi một mình lang thang trên bãi biển, tắm trần truồng, cười với làn nước mát và
chiêm ngưỡng mặt trời lên".
Hôm nay sau hơn 1 thế kỷ,
hình ảnh nguyên sơ trần truồng hiển hiện
tình cờ trong thơ UTL:
Em hồn nhiên tắm trong dòng nước
Cứ nghĩ mình em giữa đất trời
(Tiên Dung
và Chử Đồng Tử, trích TT/VNTD trang 211).
Nếu trong thơ Whitman, thiên
nhiên tưng bừng, rộn rã, đầy sức sống… thì trong thơ UTL đượm nét u hoài trầm
mặc… man mác những nỗi buồn chia ly:
Ngày đi, em đứng nhìn xao xuyến,
Mặt nước sông quê tím lục bình.
Tôi bước lòng ngập tràn lưu luyến,
Thuyền xa dần khuất ánh bình minh.
(Đi về có nhau)
Tôi yêu thích những vần thơ
tả cảnh của UTL:
Tháng chín bây giờ dài những cơn mưa,
Ngày vẫn trôi thu vàng rồi sẽ đến.
Ướt lòng đơn trùng trùng mưa kỷ niệm,
Anh nhớ cho lời hẹn lúc giao mùa.
(Lối Thu Xưa)
Qua những vần thơ tả cảnh,
người đọc có thể “chạm” vào những ngõ ngách sâu kín của tâm hồn,
như Mẹ Teresa (1910 - 1997) đã viết:
“Nếu cảm nhận được sự tĩnh
lặng trong vạn vật xung quanh, chúng ta có thể chạm đến ngõ sâu nhất của tâm
hồn.”
Ba
chữ “Uyên
Thúy Lâm” đã gói ghém được cõi thơ
Uyên Thúy
Lâm: một khu rừng có đôi chim uyên & thúy bay lượn, quấn quýt bên nhau,
cất tiếng hót líu lo suốt bốn mùa đã được tác giả khắc họa qua những vần thơ
mượt mà, êm ả, tình tứ:
Cành cây chim làm “nhà”,
Góc vườn chim xây tổ. (Đàn chim nhỏ)
Bên bờ sông nhỏ, gian nhà nhỏ,
Đôi bóng đi về ta có nhau. (Đi về có
nhau)
Còn cảnh nào đẹp hơn khi
hoàng hôn đổ bóng bên thềm có em xõa tóc đứng nhìn hoa sầu đông tím ngắt rơi rơi
trên bờ giậu:
Hoàng hôn
buông tóc em,
Thương tím
nâu màu áo.
Nắng đổ
bóng bên thềm.
Hoa xoan rơi bờ dậu.
(Tình một
thuở còn vương, mượn
vần bài “Thủa làm thơ yêu em” của
Trần Dạ Từ).
Chính tình yêu, sự tri âm và tương ngộ đã tạo nên thiên đường tuổi trẻ,
mái ấm hạnh phúc. Ôi cuộc đời tươi đẹp, mới mẻ, có ý nghĩa và đáng sống làm sao!
Ngày mới
trải thơm trên áo lụa,
Đóa hồng
bừng nở sắc hồng tươi.
(Tri âm)
Trên cành lộc biếc chào tương ngộ,
Với
nắng xuân tươi với
cuộc
đời.
(Xin vẫn chờ nhau).
Nhưng rồi chiến tranh nghiệt ngã, tù đày oan khuất, vận nước điêu linh đã
rẽ thúy chia uyên. Thành ra tên của người thơ lại là định mệnh của thơ? Thơ
Uyên Thúy Lâm luôn là những khao khát, chia ly, hoài vọng, thương nhớ, đi
tìm...
Thiên đường tắt lửa, sân ga tiễn biệt,
giây phút chia tay “đã tới rồi” không chỉ riêng tác giả mà hầu như
cả mấy thế hệ thanh niên VN đã phải gánh chịu trong suốt nửa thế kỷ chiến tranh,
tù đày, di tản, vượt biên, lưu vong, tị nạn:
Còn có đêm này thôi anh nhé!
Giây phút rời
tay đã đến
rồi
Vẳng
tiếng
còi tàu xa vọng
lại
Tiếng
buồn át hẳn tiếng mưa rơi. (Sân ga tiễn
biệt, họa
“Kiếp phù sinh” thơ Hoa Văn).
Tình yêu đẹp đẽ ngày nào, nay chỉ
còn trong tâm tưởng.
Người
đầu sông hoài vọng kẻ cuối sông:
Đầu sông dõi mắt trông tìm,
Cuối sông con nước triền miên xa nguồn.
Tôi xa em mấy dặm trường,
Mà hồn thơ vẫn chung đường, bên nhau.
(Ân tri ngộ)
Xuân qua
Thu tới… chỉ nhớ thương thôi
cũng xế đời:
Từng mùa thu đến thay mầu lá
Nhạc dạo cung buồn thêm nhớ thương. (Đi
về có nhau)
Suốt
cuộc đời này luân lạc.
Trăm năm lòng vẫn
mong tìm… (Viết tên
em).
Dù đại dương cách trở, kẻ chân mây người góc biển, nhưng tình yêu của họ
vẫn chung thủy sắt son, vẫn hẹn chờ nhau dù trọn kiếp:
Hẹn sẽ chờ nhau dù trọn kiếp,
Đường bao xa, núi cách sông ngăn.
(Đi về có nhau)
Suốt
tác phẩm trải dài điệp khúc “mong tìm, đi tìm” ai oán não nề cứ lặp đi lặp lại:
Nghĩ đến một ngày tôi trở lại
Tìm em, tôi trả nghĩa ân sâu.
(Đi về có nhau)
Những trăn trở suốt một đời luân lạc
Chim cành Nam, ngựa ải Bắc mong tìm ?
(Tri ngộ)
Trong Kinh Thánh có câu:
“Hãy xin, sẽ được; hãy tìm,
sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho.” (Ma-thi-ơ 7:7).
Nhưng cái bi đát ở đây là đi tìm mà chẳng gặp, biệt vô âm tín,
“lạc dấu chân chim”:
Tàn cuộc chiến tìm anh đâu thấy bóng.
(Tình
người
cô phụ)
Tuổi
vụng dại xa em từ
đó
Tàn chiến
chinh khắc
khoải
mong tìm.
Phố cũ nhoà đèn đêm mờ tỏ
Trăm hướng
đời lạc dấu chân chim.
(Tìm nhau)
Cõi thơ UTL vừa trữ tình
lãng mạn, vừa đoan trang mẫu mực, mộng thực đan nhau. Có những khổ thơ tả cảnh
thần sầu, cũng có những đoạn thơ tả tình tinh tế. Nơi đó, đạo đức phẩm hạnh của
người phụ nữ VN được tôn cao. Nơi đó, chiếc thuyền thơ rong chơi khắp cõi miền.
Và nơi đó có những giọt nước mắt tuôn rơi, những mảnh đời héo hắt, những bể dâu
dời đổi. Người đọc dễ dàng cảm nhận, soi sáng, thẩm thấu những đắng cay của cuộc
đời, những bọt bèo của thân phận, những bi đát của chiến tranh, những thống khổ
của tù đày, những thất thanh của thuyền nhân bỏ mình nơi “thủy mộ”, hay những
lưu vong lạc loài nơi đất khách. Thời đại tác giả là một thời đại đại bi thương,
đảo lộn mọi chân giá trị. Nhờ có trái tim nhạy cảm chan chứa nhân hậu đầy nữ
tính dễ cảm thông, sẵn sàng chia sẻ mọi nguồn cơn qua cách diễn tả chân thành
bằng những vần thơ dài ngắn đủ thể loại. Tình tự dân tộc, ý thức suy tư, trăn
trở, lo âu về sự an nguy của tổ quốc/dân tộc cứ đè nặng tâm tư. Dù là phận nữ
nhưng trước sự đe dọa thường trực từng ngày, trước sự xâm lăng đồng hóa di dân
diệt chủng bằng nhiều hình thức, trước thủ đoạn tàn độc man trá ru ngủ của kẻ
thù luôn chập chờn ẩn hiện trong thơ như tiếng chim báo bão, tiếng trống đồng
vang vọng cảnh báo mọi người dân Việt hãy mau mau thức tỉnh, cảnh giác trước mọi
mưu ma chước quỷ của kẻ thù… Tất cả đã được UTL viết lên bằng những vần thơ cảnh
giác, ưu tư, đầy tâm huyết:
Nỏ tráo móng thiêng, thành đã mất
Em bên cha trên bước bôn đào
Nước mất, tim đau lòng quặn thắt
Tìm chàng đâu muôn nẻo binh đao ?!
(Tình sử Cổ Loa thành)
Vượt biên, vượt biển, hàng triệu người dân VN liều chết bỏ nước ra đi tìm
tự do đã từng làm chấn động lương tâm nhân loại, một thực trạng đau thương chưa
từng có trong lịch sử đã được UTL diễn tả bằng những vần thơ chân thực:
Tháng Tư đen xua vạn người ra biển
Gửi mệnh đời trên thuyền lá đơn sơ
(Bước Chân Việt Nam)
Ba chữ “bao” lặp đi lặp lại vẫn chưa nói hết những nỗi bi đát của thuyền
nhân vượt Biển Đông ngày nào:
Bao nhiêu thân xác tan trong sóng
Bão nhận
chìm trăm chuyến
ra khơi
Bao thuyền
trôi giạt
nơi ghềnh
vắng
Bao tiếng
thét đau giữa
đất
trời. (Người Đi)
Thời đại bi thương, cách trở, chia lìa, cũng chính là nỗi cô quạnh, neo
đơn, sầu héo của Mẹ VN:
Bao lâu rồi
mẹ còn đây cô quạnh
Giữa
thôn làng xa khuất
tháng năm qua
Ngày nắng
hạ đến chiều đông mưa lạnh
Lủi
thủi một mình mẹ
nhớ
về xa. (Lời Mẹ quê
nhà)
UTL sử dụng nhiều thể thơ từ
5, 6, 7, 8 chữ, kể cả lục bát, Đường luật. Thể thơ nào, tác giả cũng tỏ ra nhuần
nhuyễn. Đặc biệt, tác giả còn cho thấy tài năng về xướng họa của mình. Không chỉ
họa thơ Đường luật, tứ tuyệt, tác
giả còn họa nhiều thể thơ khác như lục bát, thất ngôn, bát ngôn… Như một nghệ
nhân thêu hoa khéo tay, UTL luôn cẩn trọng chăm chút từng đường kim mũi chỉ
trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Nhiều từ trong thơ UTL đẹp lấp lánh. Thiển
nghĩ có lẽ do độ nữ tính cao, cộng với nghề nghiệp sư phạm và cách sống của tác
giả đã ảnh hưởng đáng kể trong nghệ thuật diễn đạt, góp phần tạo nên phong cách
thơ Uyên Thúy Lâm.
Tóm lại, thơ UTL đầy màu
sắc, hình tượng, âm thanh; có cốt cách đoan trang, mẫu mực; có tinh thần cao
đẹp, hướng thượng, nhưng không kém phần lãng mạn, trữ tình.
Vinh Hồ
30/4/14