Kẻ Sĩ
Nguyễn Công Trứ
Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. (1)
Có giang sơn thì sĩ đã có tên,
Từ Chu Hán, vốn sĩ này là quí.
Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị,
Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường.
Khí hạo nhiên chí đại, chí cương,
So chính khí đã đầy trong trời đất.
Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất, (2)
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn. (3)
Xe bồ luân (4) dầu chưa gặp Thang, Văn,
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.
Cầm chính đạo để tịch tà, cự bí,
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên. (5)
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng.
Trong lang miếu, ra tài lương đống,
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương.
Làm sao cho bách thế lưu phương,
Trước là sĩ sau là khanh tướng.
Kinh luân khởi tâm thượng,
Binh giáp tàng hung trung.
Vũ trụ chi gian giai phận sự,
Nam nhi đáo thử thị hào hùng. (6)
Nhà nước yên thì sĩ được thung dung,
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch. (7)
Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch,
Tiêu dao nơi hàn cốc, thanh sơn,
Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới,
Gẩm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh,
Này này sĩ mới hoàn danh
--------------------------------------------------------
(1) Tước có năm bậc thì sĩ cũng dự vào; dân có bốn nghề thì sĩ đứng đầu tiên.
(2) bồng tất: tên hai loại cỏ; cả câu chỉ chốn thảo dã kẻ sĩ ẩn thân lúc chưa
gặp thời.
(3) Điếu Vị: tích Lã Vọng xưa ngồi câu bên sông Vị; canh Sằn: tích Y Doãn xưa
làm ruộng ở đất Sằn.
(4) bồ luân: xe nhà vua thường dùng để đi rước người hiền về giúp nước.
(5) Ngăn sóng dữ để giữ trăm dòng sông.
(6) Việc chính trị đã định sẵn trong lòng; Việc giáp binh đã sắp sẵn trong bụng;
Việc đời đều coi là phận sự của mình; Làm trai như thế mới đáng mặt hào hùng.
(7) Hoàng Thạch: tức Hoàng Thạch Công. Cuối đời nhà Tần, Trương Lương đi chơi ở
đất Hạ Bì, đến Dĩ Kiều gặp ông già trao cho quyển Binh Thư Tam Lược mà dặn: "Đọc
kỹ sách này sau có thể bình thiên hạ. Sau 13 năm nhà ngươi đến núi Cốc Thành,
nếu thấy hòn đá vàng thì biết là ta đấy !" (Vì thế sau này người đời tôn ông lão
là Hoàng Thạch Công). Đúng như lời dặn của ông, Trương Lương sau này cố công lớn
trong việc giúp Lưu Bang lập nên nhà Hán
--
"Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.." (NDC)
Họa:
Đại Tướng Minh
Buổi ấy
gãy cờ, binh tướng liệt,
Lắm
người bỏ của, "tẩu vi tiên".
Chỉ
Hiền nhân, vì danh dự tuổi tên,
Lấy cái
chết, bia danh mới quí
.*1
Không
như lũ u mê, nghe lời sàm nghị,
Ra lệnh
đầu hàng, quên cả cang thường.
Chỉ vì
thằng em, quên mất kỷ cương,
Quên
thân phận đội trời đạp đất.
Ra lệnh
hàng, tưởng đâu là hoàn tất,
Có ngờ
đâu,
ấy hành
động kẻ làm sằn,
Của một
người Văn chẳng ra Văn,
Hàm
chức Tướng để người đời dị nghị.
Làm Đại
tướng, gặp cờ tàn, chào... bí,
Sợ rừng
dày, chùn bước, chẳng xuyên.
Thà đầu
hàng một cách vô-duyên
Giữ
thành quách, cho Cộng vào sử dụng.
Bởi
không nỡ nhìn Sài Gòn rụi đống,
Không
nỡ nhìn vợ nhà dài vắn giọt tương.
Không
đành hy sinh, mỗi kẻ một phương,
Nên
chấp nhận miệng đời nguyền "xủ tướng".
Giả vờ
liên lạc hòa thượng,*2
Giả vờ
bảo vì hiếu trung.
Coi tự
tử là "bất hiếu chi sự",
Để chọn
"hàng," để tránh cuộc thư hùng.
Mặc
tướng sĩ hy sinh, hoặc vào tù diện bích.*3
Trước
lệnh hàng, muốn tránh đời lếch thếch,
Số lớn
ra khơi, qua Cam bốt, vượt thâm sơn,
Để khỏi
nghe ca, khỏi học tấu học đờn,
Rằng
Bác và Đảng -- luật rừng đầy một túi.
Tội
người ở lại! Đã mấy ai hỏi tới?
Cựu
thương binh, hay Kỳ, Thiệu, trọc thanh?
Làm sao
mua được mỹ danh?
Thụy
Hoài Như (10082010)
________
*1 Xin
xem Ngũ Hổ Tướng trên
http://henvesaigon1.wordpress.com/2009/05/page/5/)
*2 HT
Thích trí Quang
*3 Ghi chú: tên riêng
ông Hoàng Thạch
không họa được,
nên tôi dùng “bích” là tường để thay cho Thạch là đá vậy