Dâu không giá-hôn
Trăm năm vật đổi sao dời,
Một câu nghịch lý muôn đời cười chê.
Dân ta trọng nếp trọng nề,
Trọng người phép tắc, ghét bề ngược ngang.
Ngồi buồn, dùng bút kẻ hàng,
Kể lại đôi chuyện, xóm làng cùng nghe:
Năm 72, vào mùa hè,
Đỗ Mười khăn gói đi về Ba-Xuyên.
Nơi ấy là quê bên chồng,
Mười về là cốt lấy lòng nhà trai. 10
Đặc biệt là Anh Chị Hai,
Có công quán xuyến trong ngoài nhiều năm,
Lo phần phụng dưỡng Song-Thân,
Từ sau binh lửa sáu lăm thuở nào.
{Năm ấy Việt Cộng đánh vào.
Bảo-An thất thế, kêu gào “viện binh”.
Đầm già thị sát chiến trường,
Bị bắn xịt khói, phố phường ra tro!
Song-Thân từ đó xác xơ!
Di cư ra tỉnh, sống nhờ các con.} 20
Mười biết chuyện, nên ân cần,
“Em nghe đồn rằng Cháu nó rất ngoan,
Lại thêm ăn học rất chăm,
Nhưng thiếu thước tấc, gầy còm cỏn con.
Nên Cậu nó, cùng Em bàn,
Xin Chị cho Cháu lên Cần-thơ chơi.
Trước là nghỉ hè, xả-hơi,
Sau thử đổi gió, để coi thể nào.”
Ôi, lời ấy… ngọt làm sao!
Như có sức mạnh bắc cầu giao thông, 30
Chỉ ngần ấy, họ nhà chồng,
Như hạn được nước, ruộng đồng được mưa.
Mẹ chồng nghe vậy bàn vô,
Xem chừng đã hết nghi ngờ nàng dâu.
Thế là hè ấy… lần đầu,
Bà cùng cháu Ngoại và “Dâu” lên đường.
Ngồi trên xe, lòng lâng lâng,
Bà hồi tưởng lại những lần gặp con.
Tính ra đã ba năm hơn,
Bà đã không gặp thằng con của Bà. 40
Vì Đỗ Mười khác người ta,
Ngày đầu xuất hiện tại nhà “kép” Năm,
Đã không ngại báo hỷ tin,
Cho Chị Tư biết rằng mình có mang.
Cái tin khiến Chị bàng hoàng,
Vì không biết phải nói rằng làm sao!
Muốn trách Năm, trách thế nào?
Chuyện đã dĩ lỡ… tránh sao tiếng đời!
Vì gia-phong, bỏ con rơi!?!
Làm chuyện thất đức, khó coi, không đành. 50
Rồi vì cốt nhục gia-đình,
Thương cháu vô tội, Tư bèn bảo Năm:
“Đàn bà bụng chửa, dạ mang,
Trước khi cưới hỏi, xóm làng gièm pha.
Những lời bàn vô, tán ra,
Sẽ không giấu được mẹ cha lâu dài!
Để tránh cha mẹ ủ mày,
Em cần giáp mặt trình bày thiệt hơn.”
Rồi sang Mười, Tư hỏi dồn,
“Chuyện đã như thế, em cần giúp chi? 60
Có muốn dọn đến nơi đây,
Để cùng chung sống đến ngày khai hoa?
Chị biết lòng của Mẹ Cha,
Chỉ mong thấy được chúng ta thuận hòa.
Vả lại, Cha Mẹ đã già,
Có thêm cháu nội chẳng là vui sao?”
Ôi, lời bàn tuyệt biết bao!
Chừng khi chung đụng, mới xao xuyến lòng.
Bởi ruột thịt khác người dưng.
“Dâu không hỏi cưới” khác hàng giá-hôn. 70
Về ở chung, chỉ vài hôm,
Mười đã để lộ nết ngông của mình.
Nói năng chẳng luận dưới trên,
Thích lê-đôi-mách, ngoài hiên, đầu làng.
Ngay lúc bụng hãy còn mang,
Đã khéo đuổi được Chị chồng dọn ra.
Khiến bên chồng, lòng xót xa.
Thương con vì tánh đào hoa hại mình.
Vì xưa nay, Năm rất hiền.
Làm lỗi Chị phạt, sẵn sàng chịu roi. 80
Giờ vì bay bướm ham chơi.
Xui Năm gặp phải con người ương-ương.
Tiền thân nữ tướng quân-trường,
Nên không thuần thục như hàng bình dân.
Tuy chấp nhận đến với Năm,
Mười không an-phận, mưu toan cướp nhà.
Nên khi đuổi được Tư ra,
Ả liền dàn dựng bán nhà để tiêu.
Nhớ đến đó, Ngoại buồn hiu,
Nhưng vì thương trẻ, đánh liều đi thăm. 90
Ôi, lòng Mẹ tựa Quán âm!
Khi con lạc lối, Mẹ tầm… độ con.
Bởi trong Bà, lòng không cam,
Khi không thấy trẻ về thăm song-đường!
Bà tin có sự hiểu lầm,
Hoặc vì xấu hổ, phải cần giải phân!
Nên khi Mười xuống nhà thăm.
Bà tin là dịp để Năm quay về.
“Quên tất cả,” ấy lời Bà,
Dặn dò con cháu, bỏ qua chuyện buồn! 100
Bà mong gia-đạo tròn vuông,
Để Bà gặp được cháu con của Bà.
Dẫu biết “dâu là ngoài da,”
Con cháu vô tội… vốn là thịt xương!
Máu mủ ai bỏ cho đành!
Giận cá, chém thớt, thì làm sao thăm!
Khi xe đỗ bến, Bà mừng,
Tươi cười Bà hỏi, “Nhà gần hay xa?”
Trông Bà chẳng chút đắn đo.
Tuy lòng trĩu nặng âu lo, bồn chồn! 110
Chừng gặp cháu nhỏ, Bà mừng,
Ôm chúng vào lòng, Bà khẻ mắng yêu!
Bao năm trông đợi bấy nhiêu.
Bà mừng được dịp nâng niu cháu Bà.
Vài hôm sau, Bà ra về,
Cậu Năm đưa Mẹ “gói quà” gởi Cha.
Khó ai học được chữ ngờ.
Dạng Bà chưa khuất, “dâu hờ” phát điên,
Inh tai mắng Bà vì tiền,
Rồi cứ chuyện đó, hết gièm lại pha. 120
“Nội sắp nhỏ, khéo giả-vờ,
Xưa chẳng ngàng ngó, bây giờ vuốt ve!
Đi thăm mà được tiền về,
Thì chuyện lui tới, ai nề quản công!”
Thằng Hai nghe, bực trong lòng.
Nhưng vì không rõ nội tình nên câm!
Riêng Mười từ đó “sủa ầm”
“Bà Nội sắp nhỏ” trở thành “đầu môi”!
Ngồi lê đôi mách… ôi thôi!
Gần xa, to nhỏ, một trời thị phi! 130
Thế rồi, hè cũng qua đi!
Người lên đón cháu phen này là Ông.
Ông Ngoại lên đón Hai giùm,
Đồng thời, thăm cả vợ chồng cậu Năm.
Thấy Ngoại, Hai tỏ tấc lòng,
Bằng cách thuật lại, ngọn nguồn đã nghe.
“Con không muốn Ngoại lúc về,
Nhận quà của Cậu, để nghe Mụ gièm.”
Nghe xong, Ngoại giận mà rằng:
“Chúng bán nhà Ngoại, trả lần đó thôi. 140
Chứ nào phải chúng cho ai!
Mà dám hỗn láo buông lời thế kia!
Cho dù chồng nó có cho,
Nó cũng không được nhỏ to, tỏi hành!
Con nuôi cha mẹ sinh thành,
Là thuận đạo nghĩa, tỏi hành là sao?”
Thằng Hai nghe vậy mới gào,
“Thế mà bôi bác là sao hỡi trời!”
Ông Ngoại thấy vậy bảo Hai,
“Cháu không phải giận, chuyện này để Ông.” 150
Trưa hôm đó, Năm về ăn,
Ngoại bảo, nếu có nhớ Ông thì về.
“Riêng Ba, khi đã về quê,
Sẽ không trở lại Cần-Thơ nữa rồi.”
Cậu Năm chẳng biết chuyện gì.
Khi nghe nói vậy, “phong-bì” đưa cha.
Rồi Năm trở bước đi ra.
Đợi con đi khuất, xoay qua Đỗ Mười,
“Chắc con biết, tiền trong này?”
Đỗ Mười khinh khỉnh trả lời “Đương nhiên!” 160
Ngoại bèn bảo, “Vì biết tiền,
Mà bây mạt sát Mẹ chồng của bây!”
Mười chợt hiểu, bèn ngó Hai!
Với vẻ khinh khỉnh “Cho mầy méc nha!”
“Nhưng méc thì làm gì ta!
Bởi đó là thật, Bả vờ rất hay!
Cũng đồng là cháu như mầy,
Bao năm lăn lóc, có ai ngó ngàng?”
Cha chồng cả giận hỏi rằng:
“Bây nói như thế là ngầm ý chi?” 170
Cô dâu với giọng khinh khi,
“Thăm cháu được bạc, dại gì không thăm?”
Ngoại rất giận, nhưng cố dằn:
“Té ra là bởi hiểu lầm mà ra!
Nhưng tiền đó, là của Ba.
Sao Bây lại bảo, đó là của Bây?”
Đỗ Mười như dại như ngây,
Vỗ bàn quát lớn, “Cha này nói ngang!
Chồng tôi trao bạc rõ ràng,
Sao Ba lại bảo là tiền của Ba?”` 180
Bấy giờ lối xóm gần xa,
Nghe Mười to tiếng, chạy qua ngó hờ.
Ông cười chua xót phân bua,
“Láng giềng nghe thử có vừa tai chăng?
Dâu con nói với Cha chồng,
Lại dám vỗ bàn, kim cổ mới nghe!”
Đỗ Mười hổ thẹn ê chề,
Cầm ly, định xáng, lại dè người xem.
Nên đặt ly xuống, hầm hầm,
Trừng mắt, lớn tiếng, “Ba đừng nói quanh! 190
Tôi không cần Ba dạy răn!
Vả, chuyện răn dạy không phần của Ba.
Bởi chưa ai cưới tôi mà,
Không cưới không hỏi, không là dâu Ông!”
Lắc đầu, khi Ngoại nghe xong!
Nhìn quanh hàng xóm, Ngoại thòng thêm câu,
“Cô Bác nghe thấy thế nào?
Cái thứ xách gói, leo rào theo trai,
Không biết xấu, lại nói nhây,
Được bên chồng nhận, lại bài bác đi. 200
Thật không rõ, học sách chi?
Mà không biết giữ tôn ti chút nào!”
Mười nghe mắng, nước mắt trào,
Nhưng vẫn ngoan cố nói rào một câu,
“Tôi chưa hề nhận cau trầu,
Nên không có phúc làm Dâu của Người.”
Ngoại nghe nói, bèn thở dài,
“Chuyện đời ngang ngược, xưa rày mới nghe!”
Rồi trước khi Ngoại ra về,
Ngoại quay lại chuyện ‘phong bì’, giải phân. 210
“Tiền này bây tưởng của Năm,
Sự thật của ấy là tiền của Qua!
Xưa Qua bỏ vốn cất nhà,
Là mong con cái thuận hòa, sống chung.
Chừng bây đến, chuyện tùm lum,
Chị em cãi vã, Tư đành dọn ra,
Ai ngờ khi chiếm được nhà
Bây liền xúi bán, để mà chi tiêu.
Giờ Tư lâm cảnh khốn nghèo,
Năm hoàn một nửa, là điều phải thôi. 220
Chứ nào phải nó cho ai!
Mà bây hỗn láo buông lời khó nghe!
Dù Năm có cho mẹ cha,
Cũng thuận đạo nghĩa, đâu là chẳng nên?”
Mười nghe vậy, thẹn trăm phần!
Nên cúi gầm mặt, khóc ròng quên thôi.
Lắc đầu Ngoại bảo thằng Hai,
Cùng Ông thu dọn, cùng ngày về quê.
Khi lên xe, lòng nặng nề!
Hai ngồi thừ đó, nghĩ về nàng dâu! 230
Vốn theo chồng, chẳng cau trầu,
Lại không giữ phận, cơ cầu nói ngông.
Trong khi đó, ở bên chồng,
Buồn con nông nỗi, dằn lòng bỏ qua.
Vì thương cháu nhỏ dại khờ,
Mà ra cớ sự xưa giờ mới nghe!
“Cháu này! Khi
về đến nhà,
Chớ nên kể lại cho Bà Ngoại nghe.”
Nghe Ông dạy, Hai ngẩn ngơ,
Nhìn Ông một chập, đoạn dò ý Ông. 240
“Nếu không nói, Ngoại đi thăm.
Cháu lo có chuyện chẳng lành đó, Ông!”
“Chuyện này để Ngoại liệu toan!
Từ từ Ngoại sẽ kể dần Bà nghe.”
Hai chẳng ngờ, khi vào nhà,
Ông bảo, Ông mệt, đừng chờ cơm Ông.
Nói xong, Ông bèn đi nằm,
Rồi như tâm bệnh hoành hành xác thân.
Qua hôm sau, cũng bỏ ăn!
Bà Ngoại thấy vậy, lăn xăn hỏi dồn. 250
Ông bèn bảo với Bà rằng,
“Mình đã bất hạnh có thằng con hoang!
Mình nuôi ăn học đàng hoàng,
Lại không biết chọn giống dòng hiền lương!
Bạ nhầm cái giống ăn sương,
Không biết lễ giáo, thua phường sói lang!
Ngay cả tôi là cha chồng,
Nó dám cãi lý, vỗ bàn với tôi.
Phải chi nó đúng, cũng thôi.
Đàng này nó cứ hàng đôi, phang bừa.” 260
Bà nghe, trố mắt sững sờ.
Cố dằn cơn giận, khuyên hờ một câu,
“Chuyện này là bởi con dâu,
Con mình nào biết đuôi đầu ra sao.
Trách chi nó, để phát đau,
Ông nên bình tỉnh, chớ rầu bỏ ăn.”
Rồi Bà nấu cháo đem lên,
Khuyên Ông dùng bữa, chớ nên để lòng.
Ông bèn ngồi dậy điểm tâm,
Nhưng ngay sau đó, lại nằm như đau! 270
Bà Ngoại thấy vậy cũng rầu,
Nhắn thân thích đến, để hầu chuyện ông.
Đồng thời đi rước thầy lang,
Ngõ hầu có thể thuốc thang cho người.
Hết Đông-Y, đến Tây-Y,
Thầy lang, Bác-sĩ, chẳng ai trị lành.
Tình thế càng ngày càng căng,
Mọi người bàn tính đưa Ông về làng.
Nơi có bà con họ hàng,
Rảnh rang, lui tới, hỏi han, sớm chiều. 280
Để Ông không phải buồn hiu,
Ngồi không, diện bích, nghĩ nhiều về Năm.
Quả nhiên khi về đến làng,
Láng giềng, thân quyến, rần rần tới thăm,
Quây quần, hỏi chuyện xa gần,
Giúp Ông trút cạn nỗi lòng, hết đau.
Nhưng chỉ một vài tuần sau,
Khi đâu vào đó, cơn đau lại về!
Tâm bệnh đối với người già,
Như hình với bóng, dễ mà lãng quên! 290
Biết Ông vì nhớ Cậu Năm,
Người nhà lặng lẽ, đi tìm báo tin.
Mới hay Cậu chuyển ra Trung,
Lại không thông báo cho Ông Bà tường!
Đang buồn, nghe chuyện càng buồn,
Lắc đầu, Ông kể… ra tuồng thở than.
Rằng: “Xưa vì muộn trai đinh,
Chưa có thằng Út, chỉ thằng cu Năm…”
Lên mười vẫn được Ông cưng.
Đi xa Ông cõng, mỏi chân Ông bồng. 300
Giờ Ông đau, Cậu biệt tăm.
“Không tiếng từ giã, dễ trông được nhờ!”
Bà Ngoại nghe vậy xen vô,
“Báo tin nguy hiểm, ông lo, ích gì!
Chuyển ra Trung, lúc loạn ly,
Nó không cho biết, cũng vì thế thôi.
Điểm này… xin hãy tin tôi,
Đừng nghĩ vớ vẩn, để rồi hại thân.”
Sau khi nghe Bà tỏ phân,
Ông như uống được linh đơn, trút sầu. 310
Hôm sau, có vẻ hết đau.
Ông bèn chống gậy đi chào hương lân.
Hôm ấy, Ông thăm bạn gần,
Dần dần thăm đến họ hàng ở xa.
Thế rồi, tháng lụn, ngày qua,
Thăm viếng, trả lễ, Ông đà lo xong,
Một hôm, trong lúc thong dong,
Ông nhận được một thiệp hồng bạn trao.
Mời dự tiệc cưới tháng sau,
Ông nhận lấy thiệp, gật đầu hứa đi. 320
Thiệp mời tiễn cháu vu-qui,
Như khơi lại chuyện không vui hôm nào.
Thế là Ông lại nhuốm đau,
Còn Năm biền biệt chẳng sao nhắn về!
Thương con, lại lắm nhiêu khê!
Lần ấy trở bệnh, Ông lìa trần gian.
Trước khi mất, Ông dặn rằng,
Đừng để mụ Đỗ để tang cho Người.
Ông không muốn làng nước cười,
Rằng Ông đã nhận Đỗ Mười làm dâu. 330
Chừng Ông mất, Bà rất rầu,
Vì không biết tính lẽ nào cho êm,
Khi nhờ người báo em chồng,
Bà nhờ “Chú Út” tin giùm cho Năm.
Bấy giờ đang ở Kontum,
Năm được điện báo, vội vàng hồi hương.
Trên đường, nghĩ đến vợ con,
Năm ghé lại để vầy đoàn về quê.
Khi Năm bảo vợ cùng về,
Để lo tang chế, trọn bề dâu con, 340
Đỗ Mười từ chối mà rằng,
“Chẳng Cha nào chết, không cần phải lo.
Điện tín do em bịa ra.
Nhắn anh về nhà, cho phỉ nhớ nhung.”
Thế là Năm cứ thung dung,
Ở chơi với vợ, mà quên đường về.
Một năm sau, Cộng Sản vô.
Năm mới giải giáp trở về quê xưa.
Đến nhà, Năm bị chúng lùa,
Đưa đi học tập, mút mùa mấy năm. 350
Lúc trong tù, Mười đến thăm,
Trông chừng bớt vẻ hung hăng thuở nào.
Nhưng để cảnh cáo Nàng Dâu,
Thằng Hai, lên tiếng “đánh đầu” bà ta.
“Thiết tưởng Bà không nên về,
Sau khi buông tiếng nặng nề khó nghe!”
Mười vờ chẳng nhớ, “Hai nè!
Sao Hai lại nói ‘trật lề’* với tôi?
Khi Mẹ và anh chị Hai,
Đều vui vẻ đón chúng tôi trở về?” 360
Hai rằng: “Vì họ chẳng nghe!
Còn tôi chứng kiến ê chề, đầu đuôi.
Làm sao quên được, mà nguôi,
Những lời trịch thượng của người năm xưa!
Ông Ngoại chết, cũng do bà!
Không riêng tôi biết, cả nhà đều hay.
Chẳng qua vì muốn sum vầy
Với Năm, sau những năm dài chiến tranh,
Bà Ngoại mới họp gia-đình,
Đề nghị gạt bỏ chuyện buồn năm xưa. 370
Để Năm sống ở quê nhà,
Sớm trưa ở cạnh bên Bà cho vui.
Riêng tôi, không phục lời này!
Bởi nghe Bà Ngoại, gác ngoài lời Ông!”
Mười nghe tự sự, khóc ròng,
Nhìn quanh cầu viện, nhưng không được gì!
Cuối cùng, với vẻ sầu bi,
Mười rằng: “Đã hối, mới đi theo chồng.
Giờ xin mọi người cảm thông
Để tôi được ở bên chồng, nuôi con.” 380
Nghe vậy thì Ông Cậu Năm,
Em trai Bà Ngoại, động lòng, bảo Hai,
“Nó đã hối hận về đây,
Thôi, cháu cũng chớ đắng cay làm gì!
Chuyện gì bỏ được, bỏ đi,
Khó dễ với nó, ích chi lúc này!”
Hai nghe dạy, liền đáp ngay,
“Cháu xin ghi lấy lời này của Ông.
Mong người đạp cứt rửa chân,
Chớ quen đường cũ, mích lòng Ngoại con. 390
Bởi chính Ngoại khuyên dưới trên,
Bỏ đi chuyện cũ để Năm về nhà.”
Ôi, lòng từ mẫu bao la.
Vì con Ngoại đã bỏ qua mọi điều.
Chỉ tiếc Đỗ Mười trớ trêu,
Ở không, đôi mách, quạ diều, chán chê!
Hàng xóm nghe biếm, nghe trề.
Thương cho Bà Ngoại, nhịn huề thật hay!
Nhưng khi được một, muốn hai,
Đỗ Mười như có lá bài “rắp tâm”. 400
Cố tình ly Mẹ gián chồng,
Để Năm cuốn gói theo nàng ra đi.
Thấy Ngoại buồn, Hai sân-si.
Một hôm hỏi Cậu, “Chuyện gì xảy ra?
Khi Ông mất, Cậu không về?
Giờ để mụ vợ sáng trề, chiều ngông?”
Cậu bèn kể chuyện “nhớ Anh.”
Thằng Hai nghe vậy, phùng mang mà rằng,
“Con Mẻ quả thật ó đâm.
Làm lỗi, chẳng biết ăn năn sửa mình! 410
Khi Ông mất, lại gạt chồng,
Rằng bả vì nhớ, ‘điện mình về chơi.’
Cậu ơi, ơi hỡi, Cậu ơi!
Ông Ngoại tức chết, bởi Mười của ông!”
Rồi Hai bèn kể đục trong,
Và bảo Cậu hỏi bà con, láng giềng.
Chừng Năm nghe biết nỗi niềm!
Cố nén tiếng khóc, lệ ràn rụa tuôn!
“Cha mất, lại không để tang,
Lại nghe lời vợ, dâm hoang, không về! 420
Cha ơi! Con
lỗi trăm bề!
Cha nơi chín suối, xin về chứng minh!
Xưa vì chẳng rõ sự tình,
Nay thì đã rõ ngọn ngành do đâu.
Thương con, mẹ cố nén sầu,
Vì con, cha phải hận, đau, bỏ mình.
Chuyện này, ai chẳng bất bình!
Mẹ lại giấu nhẹm, vô tình hại con.
Bởi vì hàng xóm xa gần,
Tưởng con biết chuyện, lại ngầm bỏ qua. 430
Đóng trang đóng khánh ‘Thờ Bà’,
Quên ơn sinh dưỡng, mới ra sự này!
Con thề, cho Mụ biết tay!
Nếu không giải thích chuyện này với con!”
Khấn xong, Năm giận, nghiến răng,
Tìm vợ, gạn hỏi, đục trong, tận tường.
Đỗ Mười gan dạ phi thường.
Ung dung thừa nhận, chẳng lòng hãi kinh.
Khiến cho chồng Mụ phát điên,
Vung chưởng, định đánh; ả liền né ngang. 440
Nhà nghề nữ-tướng khá nhanh,
Chạy đến bên cạnh Mẹ Năm, quát bừa:
“Anh chớ giả bộ say sưa
Đánh tôi, tôi sẽ chẳng chừa Má anh.”
Chuyện xưa, nghi vấn đã đành,
Giờ đây nghe thấy, rành rành chẳng ngoa.
Nhìn Mẹ, lòng Năm xót xa,
Còn đang lúng túng, trong nhà hét to,
“Tui thách cả họ nhà bà…
Ai đụng tới Má… đố mà được yên!” 450
Nghe tiếng hét, Mười trở mình,
Nhìn thấy Cậu Út hầm hầm sau lưng.
Trông chừng khó thoát trận đòn,
Mười bèn trở giọng ôn tồn, phân bua,
“Tôi nói thế, để ngăn ngừa,
Để tránh Năm tiến đánh bừa mà thôi.”
Nghe xong, Út nhếch môi cười,
Rằng “Tui không rõ ý người hiền, hung,
Nhưng tui dám khẳng định rằng,
Bà mà đánh Má, chớ hòng rời đây. 460
Cho dù tù ở mục thây,
Tôi cũng không để bà đi an toàn.”
Trong lúc tình thế khá căng,
Hàng xóm xúm lại trước sân, đông dầy,
Ngoại xả thiền, dạy thế này:
“Các con lớn tiếng ích gì, hỡi con!
Gia đình ta, ở trong làng,
Từ Mẹ còn bé, chưa từng rùm beng!
Giờ quanh ta, các con xem…
Có thua sân khấu, cải lương, đầu đình!” 470
Nghe xong, các Cậu lặng thinh!
Ngồi gục tại chỗ, phạt mình, khá lâu!
Từ ngày đó, trở về sau.
Năm không gây sự, chẳng cau có lòng.
Sống như chưa có gia đình,
Khiến nàng họ Đỗ, bực mình, về quê.
Ít lâu sau, Mười trở về.
Thấy Năm chẳng đổi, bèn thề “phá hôi”!
Giận Năm quyết chí bỏ Mười.
Nàng báo Cộng Sản, bắt người lập công. 480
Rằng Năm đang hoạt động ngầm
Tàn dư “Phục Quốc” phải cần diệt đi!
Vợ tố chồng… dẫu sinh nghi!
Thêm cái “Gốc Ngụy” dễ gì Cộng tha!
Thế là Năm phải xa nhà!
Điều Ngoại mong muốn, giờ đà tiêu tan!
Sống đời chim én lạc đàn,
Bôn ba đây đó tìm đường thoát thân.
Thời may gặp được hương lân,
Giúp giùm phương tiện, vượt biên an toàn. 490
Riêng Đỗ Mười nào chịu dừng.
Quyết tâm làm xấu nhà chồng mới nghe!
Vì lẽ ấy, cửa phòng the,
Bắt đầu rộng mở… ai chê mặc người!
Dâu đòi đánh Mẹ, xưa nay,
Hy vọng chỉ có Đỗ Mười mà thôi!
Cầu xin Ngoại Tổ trên Trời.
Anh minh, chứng giám những lời cháu phân.
Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. 500
THỤY HOÀI NHƯ
(hoàn tất Nov.16, 2009)
(Mong thông điệp này đến các em để hiểu cho Cậu.)
(Kính cầu Hương Hồn Cậu về an nghỉ với Ngoại Tổ)
_____________________________
‘trật lề’*: nói chuyện không vào đâu.