NHÀ
VĂN LÊ VĂN HƯỞNG
Nam
Thảo
Vào mùa hè năm 2005, t́nh cờ
tôi được một người bạn từ Paris gời
tặng cuốn chuyện tâm t́nh của một người
lính tiếp vận với tựa đề Cuốn Phim
Dĩ Vảng của nhà văn cựu Đại tá Lê
Văn Hưởng.
Tôi
đọc tới đọc lui quyển sách hấp dẫn
dày trên 300 trang nầy và rất ngạc nhiên về tài viết
lách của tác giả. Tôi không ngờ một vị
sĩ quan cao cấp xưa kia ngày nầy
qua ngày nọ lo chuyện cầm quân mà có tài viết văn
hay như vậy. Sau nầy được dịp
đọc thêm những tác phẩm khác của ông, tôi lại
càng cảm phục ông.
TÁC GIẢ
Ông sanh năm ngày 4 tháng 2 năm
1927 tại Gia Định, Việt Nam. Ông là con trai của ông Lương Văn Hoanh và Cô Hai
Kiêm. Cô Hai Kiêm là người vợ thứ của cha ông. Theo luật lệ ngày xưa, những
người con của vợ thứ đều phải lấy họ mẹ. Cô Hai Kiêm có họ Lê, nên ông phải lấy
họ Lê thay v́ họ Lương là họ của cha ông.
Ra đời trong một hoàn cảnh gia
đ́nh phức tạp, ông đă phải chịu cảnh mồ côi và trải qua một cuộc sống nghèo với
đầy khó khăn, gian nan, ch́m nổi.
Từng là một học sinh tí hon 5 tuổi
Lớp Chót của trường Phổ thông B́nh Ḥa, với sức thông minh và sự siêng năng,
hiếu học, ông đă thi đậu vào trường Trung học Pétrus Kư vào năm 13 tuổi và tốt
nghiệp Đại học luật khoa Sài-G̣n sau nầy.
Năm 1951, ông gia nhập quân đội
theo lệnh tổng động viên và là cựu sinh viên sĩ quan khóa 1 trường vỏ bị Thủ
Đức. Ông được cử đi du học ngoại quốc nhiều nơi và mang cấp bậc Đại tá QLVNCH
trước khi mất nước.
TÁC
PHẨM
Ông gặp may mắn thoát
nạn Cộng Sản vào giờ thứ 25 và từ ngày
định cư trên đất Mỹ sau ngày 30 tháng 4
năm 1975 cho đến nay, ông đă cho xuất bản
được sáu văn phẩm vừa tiểu thuyết,
hồi kư và truyện ngắn. Những tác phẩm của
ông gồm có:
-
Cuốn Phim Dĩ Văng -
2004
-
Đời Tỵ Nạn - 2005
-
Truyện T́nh Thời Ly Loạn
- 2007
-
Hành Tŕnh Đến Bến Tự
Do – 2009
-
Tuyển Tập Truyện Ngắn
- 2010
-
Trên Nẻo Đường Quê
Hương – 2012
Tôi
có dịp đọc được cả sáu tác phẩm nầy
của ông. Trong sáu tác phẩm
của ông, ba quyển Cuốn Phim Dĩ Văng, Đời
Tỵ Nạn và Trên Nẻo Đường Quê Hương
nói về cuộc đời “trần ai lai khổ” của
tác giả dành cho con cháu để lớp hậu bối biết
được cuộc đời của ông cha đă trải
qua.
C̣n
ba quyển c̣n lại, tác giả đă dựa vào những
chuyện có thật xảy ra ngoài đời để viết
ra thành tiểu thuyết và chuyện ngắn, kể lại
cho đọc giả giải buồn trong những ngày xa xứ
nơi đất lạ quê người.
Có th́ giờ rổi rảnh,
tôi hay đọc đi đọc lại những tác phẩm
của ông để t́m hiểu thêm về nghệ thuật
viết văn, tâm tư, triết lư và kinh nghiệm đời
của tác giả trong khi đặt bút viết ra những
ǵ mà ông muốn để lại cho con cháu và người
đời. Càng đọc, tôi càng thấy mến
phục ông và buộc phải khen ông là một nhà văn có tầm
vóc cao trong nhiều lănh vực.
VĂN
PHONG
Rặt
Miền Nam
Tôi ngưỡng
mộ ông và nhiều người ca ngợi ông v́ văn
phong của ông không rườm rà, hoa ḥe hoa sói, không chải
chuốt mượt mà, mơ mộng viển vong. Ông viết văn một cách thật t́nh, giản
dị, b́nh thường nhưng sinh động và lôi cuốn.
Ai đọc cũng thấy dể hiểu và
thích thú. Cách dùng từ ngữ rặt miền Nam của
ông giống như những nhà văn Nam kỳ Hồ Biểu
Chánh, B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên..
Cái chất văn miền
Nam của nhà văn Lê Văn Hưởng không phải là
“dùi đục chấm mấm nêm”, nhưng là những nét
cao sang của dân Sài-G̣n hoa lệ, những hương vị
vừa chua vừa ngọt của cây trái miền Tây và là những
cảnh sắc trử t́nh ong bướm nhỡn nhơ với
cỏ nội hoa đồng.
Ông đă tài t́nh dùng những
ngôn từ nôm na, nhưng chứa đựng
đầy ư nghĩa, khêu gợi t́nh quê, t́nh người. Đọc giả hải ngoại sống xa quê
hương, xa những cảnh đồng chua nước
mặn, không được nghe những tiếng nói của
người dân quê mùa. Nhà văn Lê Văn Hưởng
đă khéo léo làm thỏa măn những đọc giả nầy
bằng những lối viết văn mộc mạc đầy
chất quê xưa chất phát của ông.
Nhà văn Lê Xuyên bắt
đầu câu chuyện Chú Tư Cầu của ông bằng
những lời văn quê tả thật như sau:
…Trời
đă chạng vạng tối...
Tư Cầu
mới về tới nhà lấy thêm lúa cho vịt ăn.
Nói chuyện bá láp một hồi mà trời sụp tối
lúc nào không hay! Đến chừng nghe thiếm Hai má của
anh ta hối, anh ta mới hay:
- Ủa
Cầu, mày tính ở đây nói chuyện dần lân riết
rồi không chịu đem lúa vô trổng hả! Bộ mầy
không vô gom ba con vịt lại hả?
- Tui
có gởi con Phấn nó coi chừng dùm rồi mà!
- Ừ
gởi! Để tía mầy về ổng thấy ổng
đả cho mầy một trận rồi mầy kêu trời!
- Th́
đi đây nè...
Tư Cầu
chẳng nói chẳng rằng ǵ nữa hết, xốc thúng
lúa lên nách bưng đi. Anh ta ghé qua mái
nước múc một gáo uống ừng ực. Rồi
như để trút nổi bực tức, anh ta hắt tẹt
nước c̣n dư vào đám rau om, móc
gáo vào cây đinh nghe một cái cộp, lấy tay quẹt miệng
rồi bưng
thúng lúa thẳng ra bờ xẻo
trước nhà.
Để thúng lúa xuống
xuồng vững vàng rồi Tư Cầu vừa nhổ cây
sào vừa đưa chơn tống xuồng ra và chống
sào cho xuồng đi vèo vèo trên mặt nước…
Đọc quyển hồi
kư Trên Nẻo Đường Quê Hương (Chương
3: Tuổi Học Tṛ – Con chim bay nhăy) của nhà văn Lê
Văn Hưởng, chúng ta thấy tác giả đă dùng một
lối văn thật b́nh dân của giới thợ thuyền,
xe cộ đối thoại với nhau.
Văn cách b́nh dân miền Nam của ông
đưa người đọc đi vào hiện thực
của xả hội một cách tự nhiên, không cầu kỳ.
…Tôi được nhét ngồi gần ông tài xế, nhờ
đó có dịp xem chú đạp ga sang số, tôi phục
chú quá. Chú vừa lái xe, miệng nói chuyện
không ngớt, lúc chê người, lúc chửi thằng lơ
(lớn hơn tôi 2 tuổi), lúc cằn nhằn hành khách trên
xe:
-
Ngồi
chật chút xíu bà con, cho tụi nầy kiếm chút cháo chớ!
Xe đă chật
rồi, nếu có ai đón dọc đường là chú ngừng
chở thêm. Thấy
từ xa có một bà bưng thúng đón, chú tấp xe vô lề, thằng lơ lẹ làng từ
trên nóc xe nhăy xuống, miệng nói liền đeo:
-
Bà Rịa,
Cấp, Bà Rịa, Cấp…
Bà già được cho lên xe, hành khách la quá:
-
Chỗ
đâu mà nhét vô nữa đây?
Có tiếng chú tài xế:
-
Ráng
chật chút bà con ơi, chuyến nầy là chuyến chót!
Phần thằng lơ đứng
dứi đất lo đóng cửa xe lại
nhưng không khép cửa được v́ c̣n phân nữa thân
bà hành khách ló ra ngoài. Nó lấy hết sức b́nh sanh đẩy
cửa, ép cho bà khách vô:
- Chịu khó chút Má Hai!...
Khôi
Hài
Với
dáng người đạo mạo, hiền từ và nghiêm
trang của ông, ai cũng nghĩ rằng văn từ của
ông không thề mang tánh chất trào lộng, chọc cười
người đọc được. Tuy nhiên, người ta thấy sự vui
tươi, hồn nhiên, hài hước của ông được
diễn tả gần như khắp nơi trong những
tác phẩm của ông.
Lúc ông c̣n bôn
ba kiếm ăn trên “vùng đất hứa”,
ông không chê bay một nghề nào. Trong cuốn hồi kư và phóng sự Đời Tị Nạn của
ông, ông kể lại cho đọc giả nghe một câu
chuyện về con vịt lúc ông đi làm công cho một nhà
hàng ở Mỹ mà tôi phải bật cười một
ḿnh khi đọc qua.
“…Một
ngày đó, Mũi Đỏ bảo tôi:
-
Anh vô tủ đông đá, lấy
cho tôi bốn con “tắc”!
Tôi
ngơ ngác không hiểu ǵ, ngó anh, anh lập lại, tôi
cũng không hiểu. Anh kêu tôi theo anh, trong lúc anh hỏi
tôi: “Anh không biết “tắc” là ǵ hả?”, vừa nói vừa
chui vào tủ đá, hơi khói lạnh mịt mù xông ra, không
thấy đường đi, lạnh ơi là lạnh, anh
đem ra một con “tắc”, tôi giựt ḿnh, trả lời
cho anh rỏ:
-
Xin lỗi anh, tôi không hiểu chữ
“tắc”, thường tôi gọi là “duck”! (con
vịt).
Anh nghinh nghinh ngó tôi, không nói ǵ, biểu
tôi vô lấy thêm ba con “tắc” nữa…”
Kiến Thức
Xuyên
qua những tác phẩm của ông, người ta thấy nhà
văn Lê Văn Hưởng có một kiến thức tổng
quát rất uyên thâm. Ngoài kiến thức khoa bảng,
quân sự, chính trị, ông c̣n có một kiến thức triết
lư, văn hóa tổng quát, lịch sử, địa dư,
xả hội thật đáng được kính nễ.
Ông thông hiểu
nhiều chuyện đời mà không phải nhà văn nào có
thể được như vậy.
Trong những tác phẩm của
ông, người ta thấy thỉnh thoảng ông xen vào những
câu ca dao, những câu thơ để đời của nhiều
nhà thơ nổi tiếng xưa nay trên thi trường Việt
Nam, làm đọc giả cảm thấy vô cùng ngạc nhiên
và khoan khoái. Ông c̣n thông thạo nhiều bài thơ của những
thi gia xưa như ông Nguyễn Công Trứ và bà Huyện
Thanh Quan. Mặc dầu không phải là một thi
sĩ, nhưng ông có một tinh thần lăng mạn như
các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Đinh
Hùng, Vủ Hoàng Chương, Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu,
Tú Xương, Kiên Giang…
Trong
những tác phẩm của ông, người ta thấy ông dẫn
chứng không biết bao nhiêu chuyện, bao nhiêu quan niệm,
tư tưởng của nhiều học giả, văn
hào, v.v… xưa nay trên thế giới. Sự hiểu
biết của ông thật rộng rải, mênh mông mà ít có
nhà văn nào có được trên văn đàn Việt
trước sau tháng 4 năm 1975.
Tôi
không biết ông có là một nhạc sĩ hay không và ở
nhà ông thưởng thức âm nhạc ra sao, mà ông thuộc
nhiều bản nhạc xưa nay như nằm ḷng. Ông thường đưa vào những tác phẩm
của ông nhiều lời nhạc phổ thông thật trử
t́nh, trử ư của những nhạc sĩ nổi tiếng
ở miền Nam trước đây. Trí nhớ của
ông thật là kinh khủng!
Trong quyển Trên Nẻo Đường
Quê Hương, nhiều chỗ ông đă đưa ra những
sai lầm của triết lư ngông cuồng nông cạn phản
phúc dân nghèo của Karl Marx.
Ông
có kinh nghiệm sống với những người Cộng
Sản có kiến thức địa dư chưa ra khỏi
xóm làng và sự hiều biết chưa đầy “lá mít” mà
nói chuyện cách mạng, giải phóng trên trời dưới
đất.
Kiến
thức của nhà văn Lê Văn Hưởng không dừng
ở chốn văn chương, triết lư, nhưng c̣n
bao chứa cả đến tôn giáo ở Việt Nam nữa.
Ông c̣n là người hiểu nhiều về
đạo Phật, đạo Thiên Chúa và ngay cả đạo
Ḥa Hảo ở miền Châu Đốc và đạo Cao
Đài ở Tây Ninh.
CON NGƯỜI
Thật T́nh
Người
ta cho rằng một tác phẩm văn học là một sáng
tạo nghệ thuật. Sáng tạo nghệ
thuật là công việc của người nghệ sĩ ra
công dùng tưởng tượng để biến chế
ra sự thật hay dùng sự thật để biến chế
ra tưởng tượng. Do đó, một tác phẩm
văn học đôi khi hư, đôi khi thực. Nó là một
ảo thực mà tác giả giống như tạo hóa an bài hay thay đổi một hiển nhiên.
Tuy
nhiên, đọc qua những tác phẩm văn học của
nhà văn Lê Văn Hưởng, người ta thấy rằng
tác giả và tác phẩm của ông không có thể là ảo và
thực, nhưng có lẽ chỉ có thực mà thôi. Đặc
biệt trong ba cuốn Cuốn Phim Dĩ Vảng, Đời
Tỵ Nạn và Trên Nẻo Đường Quê Hương,
cốt chuyện là sự thật của cuộc đời
tác giả.
Điều quan trọng ở
đây là sự thật cuộc đời của tác giả
có được kể lại một cách trung thực hay
không? Có người cho rằng
người viết hồi kư thường đưa ra những
cái tốt, những cái được người đời
ham thích, ca tụng của ḿnh hơn là những cái xấu,
không được nhân gian trầm trồ quư trọng.
Ở đây, người viết hồi kư Lê
Văn Hưởng có lẽ không phải là người
đó.
Tôi
c̣n nhớ trước khi ông cho ra đời quyển Trên Nẻo
Đường Quê Hương, trong khi gởi điện
thơ thăm hỏi nhau, có lần ông đă viết cho tôi:
“ …Hiện giờ,
tôi cũng đang cố gắng chu toàn một quyển chuyện
khác, “hồi kư tuổi thơ”, không biết sẽ
được đón nhận thế nào, v́ người
Pháp có nói: “Le moi est haissable” (Cái tôi đáng ghét). Lúc đọc mầy ḍng nầy, tôi không biết
ông sẽ nói ǵ trong tác phẩm sắp ra ḷ của ông mà ông sợ
“Le moi est haissable”.
Cho đến khi đọc xong
tác phẩm mà ông sợ có “cái ta đáng ghét” trong đó, tôi thấy
những ǵ ông viết lại về cuộc đời của
ông, viết lại “cái ta” của ông, đều không có ǵ
đáng ghét cả. Tôi thấy
tác giả không phải là người thích…”nỗ”!. Ông là một nhà văn có một
đức tánh khiêm nhường và vô cùng thành thật với
bản thân ông. Cũng giống như hai quyển hồi
kư Cuốn Phim Dĩ Vảng và Đời Tỵ Nạn mà
ông ra mắt văn trường trước đây, trong cuốn
Trên Nẻo Đường Quê Hương, cuốn sách mà
ông cứ sợ nói tới cái “Le moi est haissable”, tác giả
đă kể lại tất cả những ǵ đă xảy
ra cho cuộc đời ông. Ông thật thà kể
cho mọi người nghe gốc gác của ḿnh, những chuỗi
ngày khổ cực, nghèo nàn trong đời ông mà ông phải
trải qua. Ông không che dấu hay khoe khoang điều
ǵ.
Có
một thời gian ông làm nhà hàng ở Florida, ông sợ “mất
mặt bầu cua” nếu rủi ro “bị” người Việt
thấy. V́ vậy ông thích làm việc phía sau
nhiều. Ông cũng cần không giấu
giếm cái mắc cở thầm kín của ông với mọi
người.
Yêu Nước
Khi
c̣n nhỏ, ông muốn giống như là một Gabriel Péri, một
nhà báo Pháp trước khi bị quân Đức xử bắn
v́ tội chống Đức chiếm Pháp trong Đệ
Nhi Thế Chiến, đă la lớn lên: “Je vais preparer les lendemains qui chantent (Tôi chuẩn bị
cho ngày mai tươi sáng- Trên Nẻo Đường Quê
Hương).V́ vậy, có một thời gian ông gia nhập
Thanh Niên Tiền Phong vô “khu” chống giặc Pháp để
cứu nước.
Cho đến khi bị
bắt cầm tù và hiểu rỏ bản chất tàn ác của
quân Cộng Sản, ông không c̣n tha thiết ǵ với chuyện
tham gia và ủng hộ loại người nầy nữa.
Yêu
Người
Khi
làm công cho một nhà hàng, ông được người
thưởng một đô-la. Ông vô nhà bếp
chia cho người bạn làm chung phân nữa
v́ biết bạn ḿnh không bao giờ được ai cho một
số tiền như vậy. Ông cảm thấy
trong ḷng vui sướng không cùng v́ vừa được
cho tiền và vừa giúp được bạn ḿnh mặc
dầu số tiền đó không đáng bao nhiêu.
Yêu Đời
Mặc dầu tuổi tác đă
cao, đă long đong trôi nổi với đời, nhưng
lúc nào ông cũng yêu đời. Có lần để khuyên tôi…sống vui, sống
khỏe với bịnh hoạn, ông gởi cho tôi hai câu
thơ bất hủ của thi sĩ Kahlil Gibran
trong bài The Prophet:
"Cảm ơn đời mỗi
sáng mai thức dậy,
Ta c̣n có một ngày nữa để yêu
thương”
(Vô danh)
(To wake at dawn with a winged
heart
and give thanks for another day of loving)
T́nh
Nghĩa
Từ
ngày chạy giặc Cộng Sản cho tới ngày đoàn tụ
với gia đ́nh, sống ở xứ người giữa
hoàn cảnh tự do trai gái và xa cách vợ ḿnh trong 6 năm
dài, t́nh yêu người vợ hiền yêu dấu của ông
vẩn vửng bền như sắt đá trong ḷng ông. Ông
không phải là hạng người:
"Tin
nhà ngày một vắng tin
Mặn t́nh cát lũy, lạt t́nh tao khang"
(Nguyễn
Du - Truyện Kiều)
T́nh yêu chung
thủy đối với người vợ nhà đang
ngày đêm ngóng trông gặp lại chồng của ông thật
là đáng…nễ! Trong quyển Đời Tỵ Nạn, ông
kể lại chuyện cô Cindy, một thiếu nữ
người Mỹ đă quyến rủ ông, một cặp
vợ chồng người Việt muốn gả cháu gái
cho ông và một người đẹp đă tặng ông một
bức tranh “độc nhứt vô nhị”, nhưng ông đều
quyết chí bỏ qua, không nghĩ đến việc
“lăng nhăng”.
Sau khi đọc chuyện
ông kể về cô Cindy trong quyển Đời Tỵ Nạn,
tôi có viết thơ đùa với ông: “ Tôi rất cảm phục anh. Nếu gặp tôi trong hoàn
cảnh như vậy, tôi không biết giải quyết ra
sao đây?!!”. Ông hài hước trả
lời: “ Cô
Cindy đă có 3, 4 đời chồng. Tôi không muốn phải
làm người chồng thứ năm của cô!!”.
T́nh
nghĩa huynh đệ chi binh Quân Nhu của ông đă
được thể hiện qua sự gắn bó và giúp
đở Hội Ái Hữu Quân Nhu Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa trong những năm qua của ông. Ông đă không hề tiếc hối khi hiến một
số tiến bán sách của ông cho Hội để mong Hội
có thể hoạt động được lâu dài. Ít có ai làm được một việc đầy
ư nghĩa như vậy.
Chữ
t́nh và nghĩa của ông thật lớn ngay đối với
vật vô tri vô giác.
Trong quyển Đời
Tỵ Nạn, trang 103, t́nh nghĩa của ông được
thố lộ qua cảm tưởng đối với chiếc
xe “con cóc” của ông như sau:
“…Hai
năm về trước, lái chiếc xe con cóc xuống
Miami, ḷng hăng hái, giờ đây, tôi lái trở về “cố
quốc” với chiếc xe cũ, bệ rạc nhiều.
Nhớ thương chiếc xe con cóc, tuy bị đụng
móp méo mà con cóc vẩn “thương” ḿnh, nó cho tôi ba trăm
đồng trước khi từ giă tôi, một số tiền
rất hậu vào thời đó.
Về
việc nầy, tôi rút được bài học đáng giá,
là khi nào ḿnh chăm sóc, yêu thương ai, một con vật
hay một vật vô tri vô giác nào, không phải là điều
vô ích mặc dầu lúc ra tay, ḿnh không trông trông đợi
đền bù…”.
Tranh Đấu
Từ
một vị Đại tá Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa, có quyền, có thế, nhưng
sau ngày
đổi đời, khi đối diện với những
thực tế phủ phàng, nhà văn Lê Văn Hưởng
đă không kêu than ǵ với số phận. Ông
đă vật lộn với đời trong một hoàn cảnh
sống mới đầy cực khổ và tủi nhục.
Ông ḥa ḿnh với mọi người và cố
nhoi lên trong cuộc sống v́ gia đ́nh và bản thân.
Việc
ban ngày làm văn pḥng phụ giúp giấy tờ cho người
tỵ nạn ở Florida sau năm 1980 và ban đêm đi
làm nhà hàng để kiếm tiền thêm của ông chứng
minh sự đấu tranh với đời hiếm có của
ông.
Qua
những chuyện viết của ông, người ta thấy
cuộc đời ông là một chuỗi dài tranh đấu. Tranh đấu để sanh tồn và để
vươn lên. Thành công trong đời của
ông là kết tụ của những gian khổ và hy sinh.
Với hai bàn tay trắng
sau khi trốn chạy khỏi quân Cộng Sản ở xứ
người, ông đă cố gắng quên đi quá khứ
để thích nghi với hoàn cảnh mới và kết cuộc
gặt hái được những nụ cười
tươi với hạnh phúc bên người vợ hiền
mà ông trót gởi trọn t́nh thương yêu. Ông
tự hănh diện với tủi nhục, giỡn đùa với
số phận v́ hai chữ tự do cho gia đ́nh và bản
thân. Gian truân và ê chề của cuộc
đời không làm ông nản chí, thất vọng.
Sửa Sai
Trang 53 trong quyển hồi
kư Đời Tỵ Nạn của ông, nhà văn Lê Văn
Hưởng có kể cho đọc giả một “chuyện
t́nh” trong quăng đời “không tỉnh lặng” của ông. Ông cho biết cách đây mấy mươi năm,
ông có quen một người đẹp vốn dĩ là một
họa sĩ tài ba. Không biết cảm
t́nh của cô dành cho ông thế nào mà cô họa sĩ nầy
tặng ông một bức tranh đẹp đôc nhứt vô
nhị. Ông không cho biết ông hạ hồi
của câu “chuyện t́nh” đẹp như mơ thơ
như mộng nầy ra sao. Mà ông chỉ kết thúc một
cách bỏ hở:
“…Nghĩ
lại, tôi cảm thấy có tội mấy chục lần
hơn anh Phê-Rô (1) lượm được một sợi
dây ở đầu kia có dính một con trâu. Sau nầy là thời
gian “sám hối”, danh từ mà đạo nào cũng giảng
dạy và nhắc nhỡ ḿnh ăn năn
cùng nhận lỗi khi làm điều ǵ say quấy.
Tục
ngữ Pháp có câu: “Một lỗi thú nhận được
tha thứ phân nữa” (Une faute avouée est à
moitié pardonné)
(Đời
Tỵ Nạn)
Ông
muốn nói ǵ ở đây? Có lẽ ông
muốn ám chỉ: “ Có tội th́ hăy nhận
tội để sửa đổi, cải thiện!. Có thế, tội t́nh sẽ có thể được
nhẹ đi phân nữa. Chớ chưa hẳn là
được tha hết! Thế nhưng trên cơi đời
nầy vẩn có người làm lỗi mà không bao giờ thấy
và nếu thấy cũng chưa chắc nhận lỗi
ḿnh đă gây ra, vẩn nghênh ngang, hống hách!
Cái
triết lư trong câu chuyện “lẩm cẩm sự đời”
nầy có lẽ là một bài học cho nhiều người
trong chúng ta phải suy ngẫm.
(1)-
Chuyện vui về anh chàng Phê-Rô đem bán một con trâu của
trời cho, rồi đi đánh bạc thua hết tiền.
Sau đó anh di xin tội với một vị
linh mục.
KẾT
LUẬN
Viết
để nói về nhà văn Lê Văn Hưởng trong mấy
trang giấy xét ra không đủ. Con người
và văn phong của ông có lẽ c̣n nhiều lắm những
độc đáo mà đọc giả chỉ có thể biết
được sau khi đọc những tác phẩm của
ông.
Tôi
là một người lính trong quá khứ không được
hân hạnh phục vụ dưới trướng của
cựu Đại tá Lê Văn Hưởng. Tôi cũng
chưa được hưởng ǵ gọi là “ơn
mưa móc” của ông.
Cầu xin người
đọc đừng cho tôi viết bài nầy để tâng
bốc ông lên khỏi chin từng mây v́ một lư do ǵ!. Với nhiệt t́nh và nhận xét chân thật
của ḷng, viết bài nầy hôm nay, tôi chỉ muốn
tŕnh làng những điều hay vẻ đẹp từ
ng̣i bút của một nhà văn vỏ biền Quân Nhu mà tôi
luôn luôn trọng phục.
Đối
với tôi, nhà văn Lê Văn Hưởng là một trong những
v́ sao sáng trong làng văn học của Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa ở hải ngoại sau ngày 30 tháng 4 năm
1975.
Hôm nay, nhà văn Lê Văn
Hưởng đă có mặt trên trái đất nầy
được 88 năm rồi. Tuổi hạc
ông đă cao. Đầu tháng 5/2014, tôi có viết thơ
hỏi ông có đi dự đại hội Quân Nhu năm nay
hay không. Ông cho biết v́ “Sanh Lăo Bệnh Tử”,
sức khỏe của ông không c̣n được như
xưa, nên ông sẽ không thể đi tham dự được.
Tôi thấy ḷng buồn buồn khi nhận
được tin nầy.
Sanh
Lăo Bệnh Tử? Đúng vậy! Đó là luật
thường nhiên! Rồi ai ai cũng sẽ
già nua, ai ai cũng sẽ bệnh hoạn để rồi
phải từ giả cơi đời vui buồn nầy.
Tôi nói không kiêng kỵ v́ sự
thật tử sanh có ǵ là đáng sợ! Rồi một ngày
nào ông sẽ ra đi!
Cá nhân tôi sẽ nhớ tiếc
ông với t́nh người, t́nh lính, t́nh văn.
Hội
Ái Hữu Quân Nhu ở hải ngoại sẽ măi tưởng
thương ông v́ chính ông là một trong những người
có đầy t́nh nghĩa Quân Nhu, đă tích cực và hy sinh hổ
trợ cho sự tồn tại của Hội nầy một
phần lớn.
Văn sử Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa và văn đoàn Việt sẽ mất đi
một ng̣i viết trên đời hiếm có.
Từ
bây giờ tới ngày cát bụi gọi về, tôi cầu
mong sức khỏe của ông luôn được dồi dào
và ông sẽ c̣n sống lâu, sống lâu hơn nữa. Ông
sẽ sống lâu với những chuỗi năm dài không
c̣n phiền lụy, với sự may mắn, b́nh an và với những nụ cười vui không
tắt trên bước đường chiều hạnh
phúc thênh thang.
Nam
Thảo