Một Cảm Nhận về “Tuyển Tập Truyện Ngắn”
của
Nhà Văn Lê Văn Hưởng
Tạo Ân
Khi được anh Vinh Hồ giao công tác viết về tác phẩm “Tập Truyện Ngắn” tôi nhận lời liền. Nhưng sau khi viết được nửa chừng, duyệt qua phần chương trình, thấy chương trình dài lê thê với nhiều bài diễn thuyết, mới có ý định đổi thành “phỏng vấn” cho thay đổi không khí. Hy vọng không làm hư việc của tác giả (TG) và anh hội trưởng ( HT). Sau ngày ra mắt, tôi về nhà, mở lại bài viết dở dang, thấy mình cần làm cho xong để tròn trách nhiệm với lời hứa. Nhưng có lẽ nhờ chậm lại một chút, tôi lại có thêm một chút hiểu biết về tác giả và thấm mùi với tác phẩm hơn.
Thú thật tôi không biết nhiều về nhà văn Lê Văn Hưởng hơn là một vài lần trò chuyện qua email, hỏi thăm anh Vinh Hồ về cá tính của TG trong lúc đi tìm thêm tài liệu cho bài viết, và trong ngày ra mắt sách, nói chuyện xã giao đôi ba câu thăm hỏi. Cái ấn tượng đầu tiên của tôi với tác giả là cái bắt tay rất chặt, tôi có cảm tưởng là bàn tay của một thanh niên hơn là của cụ già hơn 80. Đôi mắt nhìn thẳng đối tượng cùng với giọng nói chân thật hiền hòa của người miền Nam tạo liền cái không khí thân cận. Rồi thêm cái tính khiêm nhường rất dễ cảm. Đêm hôm ra mắt sách, TG Lê Văn Hưởng là người kiếm ta tôi trong đám đông trước thay vì tôi phải tới chào hỏi cho phải đạo. Chỉ nội bằng ấy thôi, ông đã biểu lộ được cái khiêm cung khả ái của văn nhân.
Sở dĩ tôi phài dài dòng như vậy là để muốn chứng minh cái chân lý “văn là người” mà chúng ta hay nghe thấy. Tác giả diễn đạt tư tưởng như là giải toán hình học. Đi từ điểm A đến điểm B chỉ có con đường thẳng là đáp số. Có lẽ LVH rất giỏi về toán học (đầu năm làm thầy bói đoán mò thôi, hy vọng đoán trúng). Với lối hành văn giản dị, tránh những hư cấu vô nghĩa, sương khói rườm rà, ý tưởng được xếp đặt theo thứ tự lớp lang, tác giả luôn đi thẳng vào chính đề ngay trong những câu mở đầu. Trong cách trình bày nhân vật cũng vậy, tác giả tả nhân vật bằng hành động của chính nhân vật thay vì miêu tả qua tâm lý hay ngoại hình. Và nấp đằng sau những cái đơn sơ là những đề tài lớn lao của con người: lòng ái quốc, đạo vợ chồng, đạo hiếu, sự tha thứ, hạnh phúc gia đình, v.v … Nhưng ở đây tôi xin được giới hạn và chỉ bàn tới chân dung người phụ nữ Việt Nam mà tác giả đã thi vị hóa qua hình ảnh thiết tha của con cò.
Trong nghệ thuật nói chung, từ nghìn xưa nữ tính thường là biểu tượng cho sự chở che, cưu mang. Những hình đất nung biểu hiện người nữ từ thời cổ đại thường có khuôn mặt thiếu cá tính, kèm theo thân hình đẫy đà, với cặp vú lộ no tròn, tượng trưng cho sức sống. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khi nói về nhân vật huyền thoại Mẹ Cả cũng tách rời cá tính ra khỏi nhân vật: “Tôi cố nhớ lại khuôn mặt Mẹ Cả mà không nhớ được. Cứ nhắm mắt lại là thấy toàn mặt quen, tựa như mặt bà Hai Khởi vừa trông vừa to, mũi trông như vỏ cam sần, hoặc như mặt chị Vĩnh, dài, mà tai tái như dái…”. TG LVH hình như cũng không thoát ra quy luật chung đó khi ông ví von các bà vợ lính miền Nam như những con cò lận đận, thiết tha trong ca dao.
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Câu ca dao này quen lắm. Như ở tiềm thức. Thuở lọt lòng đã nghe mẹ ru. Ấy thế mà như lời tiên tri vận vào thân phận một lớp người phụ nữ sau năm 75.
Con cò là một hình ành lam lũ quen thuộc ở đồng quê chẳng khác chi người phụ nữ chân lấm tay bùn, cong lưng đổ mồ hôi trên mảnh ruộng, chẳng quản nhọc nhằn để đổi lấy bát cơm. Nhân vật mà LVH chọn, mặc dầu là có thật, nhưng tác giả đặt nhân vật vào chiếc ngôi hy sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam, và hình ảnh con cò nâng mặt trừu tượng lên cao hơn, cũng giống như khi nhìn vào hình gốm người nữ xưa, chúng ta không thấy mặt, chỉ thấy ngụ ý qua hình thể.
Sau tháng 4 đen, nhà tù mọc lên khắp nơi, mầu âm u đổ xuống che mất ánh sáng. “Cái cò” xuất hiện như sự cứu rỗi cần thiết trong thế giới nhị nguyên có ác phải có lành. Các nàng gánh gạo, gánh theo cả hy vọng cứu rỗi. Sự hy sinh tột cùng của các nàng đúng là nơi nương tựa ấm êm trong cơn biến loạn hãi hùng của đất nước–đúng là nước Cam Lồ đổ xuống vết phỏng nhân gian.
Tôi thấy con cò Việt Nam mình đẹp thật, mặc dù lúc nào cũng lấm bùn, nhưng đẹp còn hơn mấy con hạc trắng phau trong tranh Tàu. Tự nhiên tôi lại nhớ tới mấy câu thiết tha như vạc kêu sương của Hồ Dzếnh:
…Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ Hy Sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
TẠO ÂN
Đầu năm Tân Mão
Kính tặng bác Lê Văn Hưởng